Xuyến chi hay còn gọi là đơn buốt, quỷ châm, đơn kim, song nha lông, người dân hay gọi là hoa cỏ đĩ. Nó có tên khoa học là Bidens pilosa, một loài thực vật có hoa thuộc chi Bidens, họ Cúc (Asteraceae)
Cây mọc hàng năm, cao 0.3m-1m, mọc đứng, phân nhánh nhiều; thân và cành có rãnh chạy dọc, khi già màu nâu tía; thân non có lông. Lá mọc đối, có cuống dài, đơn hay thường có 3 lá chét hình trứng thuôn dài 3-6cm, rộng 1.5-2cm, mặt trên ráp, mép khía răng cưa nhọn, đều. Cụm hoa ở nách lá hay ở ngọn, mọc riêng lẻ hay từng đôi một. Trong mỗi đầu hoa, các hoa vòng ngoài hình lưỡi màu trắng; nhụy hoa ở giữa màu vàng. Quả bế hình thoi, có 2-3 sừng ở đầu quả như những cái gai nhỏ.
Ở Việt Nam cây xuyến chi phân bố khắp các tỉnh thành từ Bắc vào Nam ở những bãi đất trống, ven đường, ven mương, đồng cỏ,… Cây xuyến chi có thân tròn, có lông và có thể phát triển đến độ cao khoảng 1m. Trên thân là những chiếc lá màu xanh nằm đối diện nhau và có hình răng cưa. Hoa xuyến chi thường nở quanh năm với đặc điểm gồm năm cánh hoa màu trắng và nhụy hoa màu vàng.
Các hạt được phát triển từ nhụy hoa, sau đó bay theo gió đến những nơi có điều kiện tốt để phát triển thành cây con. Thành phần hoạt chất trong cây xuyến chi gồm: Nước: 9,8%, Acetone: 2,8%, Methanol: 8,6%, Magie: 2,3%, Mangan: 2,2%, Photpho: 1,6%, Crom: 1,2%, Canxi: 1,1%, Kẽm: 0,03%, Sắt: 0,02%. Cây xuyến chi có vị đắng, nhạt, hơi cay và tính mát nên có tác dụng tốt trong việc thanh nhiệt cho cơ thể, giải độc, sát trùng các vết thương, chống viêm.
Cỏ xuyên chi mọc dại ở khắp nơi.
Trong những năm 1970, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) đã thúc đẩy việc trồng Xuyến chi ở châu Phi vì nó dễ trồng, có thể sử dụng làm rau ăn và không có độc tính.
Xuyến chi được sử dụng nhiều chống bệnh tiểu đường ở Mỹ, Châu Phi và Châu Á. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng Xuyến chi có thể điều trị bệnh tiểu đường type 1 (T1D) và bệnh tiểu đường type 2 (T2D) ở động vật.
Hoạt chất sinh học có tác dụng đối với bệnh tiểu đường, trên cơ sở xem xét tác động sinh học của Xuyến chi, các nhà nghiên cứu đã phân lập được các hoạt chất 3 polyynes: 3-β-D-glucopyranosyl-1-hydroxy-6(E)-tetradecene-8,10,12-triyne; 2-β-D-glucopyranosyloxy-1-hydroxy-5(E)-tetradecene-7,9,11-triyne và 2-β-D-glucopyranosyloxy-1-hydroxytrideca-5,7,9,11-tetrayne (cytopiloyne) có tác dụng hạ đường huyết trên chuột.
Đối với Tiểu đường type 1(T1D), nghiên cứu cho thấy thành phần butanol của Xuyến chi ức chế sự tăng sinh tế bào T, làm giảm tế bào Th1 và cytokines, tăng tế bào Th2 và cytokines, phòng ngừa T1D ở chuột, giúp chúng không bị tiểu đường. Trong 3 polyyne được phân lập thì Cytopiloyne có hoạt tính chống T1D mạnh nhất. Do đó nó có khả năng ức chế sự tăng sinh tế bào T và điều hòa miễn dịch giúp chống tăng đường huyết.
Tiểu đường type 2 (T2D) là bệnh chuyển hóa mạn tính gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng. Dịch chiết ethanol của ngọn Xuyến chi giúp làm giảm lượng đường trong máu trên chuột. Hỗn hợp 2 hợp chất C và B (tỉ lệ 2:3) làm giảm đáng kể nồng độ glucose trong máu. Các tác giả đánh giá khả năng kháng tiểu đường thông qua sự hạ đường huyết, tăng lượng insulin trong máu, cải thiện dung nạp glucose và giảm tỷ lệ hemoglobin glycosyl hóa. Cơ chế làm hạ đường huyết của dịch chiết nước Xuyến chi là kích tích tăng tiết insulin và chống teo tế bào tuyến tụy.
Cũng như các thuốc điều trị Tiểu đường tổng hợp, Cytopiloyne không thể ngăn chặn và không thể chữa khỏi hoàn toàn bệnh Tiểu đường nhưng lại có tác dụng làm giảm các triệu chứng của bệnh.
Theo BS Hoàng Sầm
Doanh nghiệp và Tiếp thị