Một trong những điểm yếu cố hữu được Cushman & Wakefield nêu ra đó là quy mô lao động tại nhiều quốc gia trong khu vực còn ở mức thấp, cách quá xa so với Trung Quốc. Do đó, vị thế của Trung Quốc vẫn sẽ còn được kéo dài.
Cụ thể, Trung Quốc sở hữu tới 53% tổng số việc làm tại kho bãi ở châu Á - Thái Bình Dương, tương đương khoảng 163 triệu nhân viên đều ở Trung Quốc đại lục; khoảng cách rất rõ ràng với Ấn Độ chiếm 20% (60 triệu) và Indonesia 8% (25 triệu).
Cùng với đó, năng lực của cảng cũng cần được xem xét trong bất kỳ hoạt động mở rộng nào về hậu cần và công nghiệp trên toàn khu vực. Châu Á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 65% sản lượng cảng container trên thế giới, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi có nhiều đại diện nổi bật trong số các cảng đông đúc nhất thế giới, chiếm 30 trong số 50 vị trí đầu. Tuy nhiên, ở mức độ chi tiết hơn, năng lực cảng tập trung nhiều ở các cảng của Trung Quốc, chiếm 4 trong số 5 vị trí hàng đầu và 7 trong số 10 vị trí hàng đầu. Singapore là thành phố duy nhất còn lại lọt vào top 5, trong khi Busan và Los Angeles lọt vào top 10.
Vấn đề trở nên rõ ràng hơn khi mức thông lượng TEU (hai mươi đơn vị tương đương) được kiểm tra. Giới hạn phân tích ở 50 cảng hàng đầu, Trung Quốc chiếm 45% sản lượng thông qua ở mức 247 triệu TEU. Thị trường Ấn Độ và Đông Nam Á, trong đó có Singapore, chiếm tổng cộng 19% sản lượng thông qua, tương đương 106 triệu TEU. Điểm mấu chốt ở đây là cần phải tạo ra thêm công suất cảng đáng kể trên các thị trường này nếu chúng muốn đáp ứng sự tăng trưởng trong tương lai.
Xếp hạng năng lực cảng toàn cầu và sản lượng TEU năm 2022. Nguồn: World Shipping Council. |
Một điểm yếu nữa cũng được Cushman & Wakefield chỉ ra là chuỗi cung ứng có tuổi thọ về thiết kế, thông thường ít nhất là 5 - 10 năm sẽ cần được đánh giá và cập nhật liên tục. Tuy nhiên, việc thiết kế lại hoàn toàn hoặc thậm chí là cập nhật không nên được thực hiện một cách sơ sài vì 80% chi phí chuỗi cung ứng sẽ phụ thuộc vào giai đoạn thiết kế.
Đây là lý do tại sao việc đưa ra quyết định đúng đắn về thiết kế và vận hành mạng lưới chuỗi cung ứng trong tương lai cần phải liên quan đến việc phân tích dữ liệu nghiêm ngặt, sử dụng các quy trình lập kế hoạch trước, thuật toán và công cụ cũng như khả năng tiếp cận các điều kiện thị trường mới nhất.
Ngoài ra, theo Cushman & Wakefield, còn hàng loạt hạn chế khác. Cụ thể, thời gian thực hiện dịch vụ có thể khác nhau rất nhiều tùy theo ngành và theo các kiểu thiết kế chuỗi cung ứng khác nhau. Chuỗi cung ứng linh hoạt cho phép phản hồi nhanh chóng, trong khi chuỗi cung ứng tinh gọn mang lại khả năng dự đoán với chi phí thấp. Điều quan trọng là phải phân tích và hiểu hành vi mua hàng của khách hàng, không chỉ bây giờ mà cả trong tương lai và điều này tác động như thế nào đến môi trường cạnh tranh.
Cùng với đó, nguồn lao động sẵn có, chi phí và năng suất thay đổi đáng kể giữa các ngành và khu vực địa lý. Các doanh nghiệp cần xem xét nguồn lao động sẵn và các kỹ năng chính cần thiết. Trong khi sự chuyển đổi liên tục sang tự động hóa, đặc biệt là các giải pháp robot, có thể giảm đáng kể lao động cấp công nhân, đồng thời tạo ra nhu cầu về kỹ thuật viên và kỹ sư lành nghề để đảm bảo đạt được hiệu quả và tính liên tục. Nguồn lao động như vậy không phải lúc nào cũng có sẵn ở mọi thị trường.
Một vấn đề nữa là khoảng cách với các nhà cung cấp là yếu tố cơ bản cần cân nhắc để đạt được tính liên tục trong sản xuất và không vượt quá chi phí đầu vào mục tiêu. Việc chuyển đổi chuỗi cung ứng và rời khỏi hệ sinh thái nhà cung cấp đã được thiết lập mang lại rủi ro đôi khi có thể lớn hơn lợi ích cần được phân tích và thử nghiệm nghiêm ngặt trong giai đoạn thiết kế.
Cushman & Wakefield cho rằng, độ hiệu quả và đáng tin cậy của vận chuyển cả trong nước và xuyên biên giới là điều tối quan trọng đối với chuỗi cung ứng. Sự trưởng thành và hiệu quả của các nhà cung cấp dịch vụ hậu cần có thể tác động đến hiệu suất tổng thể của chuỗi cung ứng về cả dịch vụ và chi phí. Như đã nhấn mạnh ở trên, tắc nghẽn tại các cảng là yếu tố then chốt quyết định tính liên tục trong việc cung cấp nguyên liệu thô và vận chuyển hàng hóa.
Bên cạnh đó, các biện pháp giảm thiểu carbon nên được đưa vào thiết kế chuỗi cung ứng ở tất cả các giai đoạn do tính chất lâu dài của các quyết định được đưa ra. Làm như vậy sẽ giúp đảm bảo các công ty có thể đáp ứng các mục tiêu bền vững trong tương lai mà người tiêu dùng, nhà đầu tư và các bên liên quan nội bộ yêu cầu.
Cuối cùng, theo Cushman & Wakefield, thuế và phí khác nhau rất nhiều giữa các thị trường và có thể ảnh hưởng đáng kể đến tổng chi phí cung cấp. Việc giảm thiểu thuế và phí thường có thể dẫn đến cấu trúc phức tạp, dòng sản phẩm và giao dịch có thể ảnh hưởng đến hiệu quả và thời gian giao hàng của chuỗi cung ứng.