Thông tin được nhật báo kinh doanh Vedomosti trích dẫn dữ liệu từ công ty phân tích năng lượng Kpler. Tại Đông Nam Á, các nước tăng mua than Nga nhiều gồm: Việt Nam tăng gần gấp đôi lên 3,9 triệu tấn, Malaysia tăng 18% lên 3,8 triệu tấn, và Indonesia tăng 1,7 lần lên 3,4 triệu tấn. Ngoài ra, Myanmar cũng mua nhiều hơn 10%, đạt 41.000 tấn vào năm ngoái.
Xuất khẩu than Nga sang Đông Nam Á tăng mạnh nằm trong xu hướng chuyển đổi dòng chảy cung cấp than từ châu Âu sang châu Á năm qua, sau khi EU dừng mua hàng vì các lệnh trừng phạt của phương Tây với Moskva.
Trong đó, Trung Quốc hiện là đối tác thương mại châu Á lớn nhất của Nga, đã nhập khẩu 40% tổng lượng than xuất khẩu của nước này kể từ năm 2022, tiếp theo là Ấn Độ (20%) và Hàn Quốc (13%).
Theo dữ liệu hải quan Trung Quốc, nhập khẩu than trong tháng 12/2023 đạt kỷ lục 47,3 triệu tấn, đưa tổng lượng nhập khẩu năm 2023 lên mức cao nhất mọi thời đại. Kpler ước tính xuất khẩu than của Nga sang Trung Quốc đạt tổng cộng 104 triệu tấn vào năm ngoái, tăng gần 43% so với 2022.
Ngoài ra, một số bạn hàng châu Á khác cũng tích cực đón nhận than Nga. Ví dụ, Sri Lanka tăng mua gấp 4,5 lần lên 1,6 triệu tấn. Bangladesh cũng mua 48.000 tấn than từ Nga năm qua.
Trên phạm vi toàn cầu, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ hiện là 4 nước nhập khẩu than Nga nhiều nhất, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ. Bộ tứ này thu mua hơn 80% lượng than xuất khẩu của Nga giai đoạn tháng 8/2022 - 7/2023, so với 47% vào giai đoạn tháng 8/2021 - 7/2022.
Trong khi đó, than Nga đến châu Âu đã giảm 57% giữa hai giai đoạn này. Trước lệnh trừng phạt, Đức và Nhật Bản là nhà nhập khẩu than Nga lớn thứ ba và thứ tư thế giới. Cả hai đều cấm nhập khẩu vào năm 2022. Thay vào đó, Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhập khẩu than của Nga 120%, lên 30 triệu tấn và Ấn Độ mua thêm 159%, lên 29 triệu tấn trong cùng thời kỳ.
Phiên An (theo RT, EIA)