Vụ cướp khởi đầu bởi Louis Werner, nhân viên vận chuyển hàng hóa của hãng hàng không Lufthansa của Đức, cũng là người nghiện cờ bạc.
Nhiều tháng trước khi cướp, Werner báo tin cho nhà cái Martin Krugman về lượng lớn tiền mặt không thể truy xuất nằm trong kho tiền của Lufthansa. Tiền được chuyển đến bằng máy bay mỗi tháng một lần và đôi khi được cất giữ qua đêm trước khi gửi vào ngân hàng.
Werner và đồng nghiệp Peter Gruenwald từng ăn cắp số ngoại tệ trị giá 22.000 USD (tương đương 100.000 USD vào năm 2020) từ Lufthansa vào năm 1976.
Krugman sau đó báo cho Henry Hill và thông tin đến tai James Burke - đối tác của gia đình mafia Lucchese khét tiếng. Burke đề nghị lập kế hoạch cướp và lựa chọn nhóm thực hiện gồm Tommy DeSimone, Angelo Sepe, Louis Cafora, Joe Manri, Robert McMahon và Paolo LiCastri. Con trai của Burke sẽ lái xe bọc hậu và Parnell Edwards có nhiệm vụ vứt bỏ chiếc xe van gây án.
Tùy thuộc vào vai trò trong vụ cướp, mỗi người sẽ nhận được từ 10.000 đến 50.000 USD. Werner nhận được 10%. Tuy nhiên, đây là con số khi chúng ước tính lấy được 2 triệu USD so với thực tế là 5,875 triệu USD.
Khoảng 3h sáng 11/12/1978, 6 tên cướp lái xe Ford Econoline màu đen đến tòa nhà chứa hàng của hãng hàng không Lufthansa tại sân bay Quốc tế John F. Kennedy ở New York. Chúng cắt ổ khóa cổng bằng kìm cộng lực.
Werner đã đưa cho nhóm cướp bản phác thảo về cách bố trí và hệ thống báo động của tòa nhà. Vì vậy nhóm cướp có thể nhận biết các hành lang phức tạp và nắm được biện pháp an ninh.
Vài tên đeo mặt nạ và găng tay trượt tuyết cầm súng đột nhập, vây bắt các nhân viên đang làm việc, bịt miệng và bắt họ làm con tin. Chúng dí súng bắt người quản lý mở cửa kho tiền để lấy đi 72 hộp carton chứa đầy tiền. Cảnh sát ước tính 5 triệu USD tiền mặt và 875.000 USD trang sức đã bị cướp, tương đương 23,3 triệu USD vào năm 2020.
Toàn bộ vụ cướp chỉ diễn ra trong hơn một tiếng. 4h21, nhóm cướp tẩu thoát trên xe van và một xe bọc hậu. 4h30, một nhân viên thoát khỏi trói buộc và gọi cảnh sát.
Nhóm cướp lái xe đến gặp Burke tại cửa hàng sửa chữa ôtô ở Canarsie, Brooklyn. Các hộp tiền được chuyển từ xe van vào thùng của hai ôtô. Burke và con trai lái một chiếc và 4 người gồm Manri, McMahon, DeSimone, Sepe lái xe thứ hai.
Chúng lộ dấu vết khi Edwards không vứt bỏ xe van cùng bằng chứng như kế hoạch. Edwards vốn phải lái xe đến New Jersey, tiêu hủy xe ở bãi rác thuộc sở hữu của ông trùm gia đình mafia Gambino. Thay vào đó, Edwards đậu xe van trước trụ cứu hỏa ở căn hộ của bạn gái. Cảnh sát phát hiện chiếc xe hai ngày sau vụ cướp. Từ xe van, dấu vân tay của một số tên cướp được thu thập.
FBI xác định nhóm của Burke có khả năng là thủ phạm, chủ yếu dựa trên chiếc xe van và mối liên hệ giữa Edwards với băng đảng Burke. Họ thiết lập giám sát chặt chẽ, theo dõi băng nhóm bằng máy bay trực thăng và nghe trộm xe, điện thoại tại quán rượu chúng thường lui tới.
FBI đã ghi lại một số đoạn trò chuyện, như Sepe nói với người đàn ông không rõ danh tính về "một chiếc hộp nâu và một chiếc túi từ Lufthansa", anh ta còn nói với bạn gái "nhìn xem tiền ở đâu..., đào một cái hố trong hầm ở bãi cỏ phía sau...". Nhưng điều này không đủ để kết nối rõ rệt nhóm của Burke với vụ cướp, và không có lệnh khám xét nào được ban ra.
Khi FBI đang nỗ lực phá án, nhiều người có liên quan đến vụ cướp Lufthansa lần lượt chết. Tháng 4/1980, Henry Hill bị bắt vì tội danh ma túy không liên quan. Anh ta bị thuyết phục trở thành người cung cấp thông tin cho FBI và tham gia Chương trình Bảo vệ Nhân chứng cùng gia đình.
Theo Hill, Burke trở nên hoang tưởng và bị kích động khi nhận ra sơ suất của Edwards đã dẫn đến nhiều sự chú ý từ cảnh sát, và quyết định thủ tiêu bất cứ ai có thể liên lụy đến hắn, bắt đầu từ Edwards. DeSimone và Sepe được lệnh tìm nơi ẩn náu của Edwards và bắn chết anh ta, chỉ 7 ngày sau vụ cướp.
Krugman bị Burke và Sepe sát hại ngày 6/1/1979 sau khi tức giận đòi 500.000 USD từ vụ cướp và khiến Burke tin rằng anh ta sắp báo tin cho FBI. Cafora bị giết vào tháng 3/1979 vì chống lại lệnh của Burke, tiết lộ cho vợ về vụ cướp.
Joe Manri và McMahon, hai kẻ cung cấp thông tin nội bộ giúp lên kế hoạch vụ cướp, bị bắn chết ngày 15/5/1979, sau khi liên tục được FBI đề nghị hợp tác và tham gia Chương trình Bảo vệ Nhân chứng, nhưng cả hai đều từ chối.
LiCastri không thực sự tham gia nhưng là liên lạc viên của gia đình Gambino, phụ trách giám sát các kế hoạch và đảm bảo rằng Gambino nhận được 200.000 USD. Thi thể anh ta được tìm thấy vào ngày 13/6/1979.
DeSimone và Sepe cũng bị giết lần lượt vào năm 1979 và 1984, nhưng không phải do mệnh lệnh của Burke mà bởi thanh toán giữa các băng đảng.
Dẫu hầu hết đồng bọn và kẻ lập kế hoạch vụ cướp bị giết, số ít bằng chứng và nhân chứng vẫn kết nối Burke hoặc nhóm của hắn với vụ án. Các nhà điều tra tin rằng Burke là kẻ chủ mưu. Nhưng Hill không thể giúp nhà chức trách kết tội Burke và Paul Vario - thành viên gia đình Lucchese đã chấp thuận cho thuộc hạ tham gia vụ cướp Lufthansa. Cả hai sau đó bị kết án về các tội danh khác theo lời khai của Hill. Burke chết trong tù năm 1996 vì bệnh ung thư.
Cuối cùng, nhân viên "tay trong" Werner là kẻ duy nhất bị kết tội trong vụ cướp Lufthansa, nhận án 15 năm tù vào năm 1979. Các nhà chức trách có thể thu thập đủ bằng chứng để truy tố Werner vì giúp lên kế hoạch cho vụ cướp. Gruenwald cũng làm chứng chống lại Werner.
Chỉ một phần nhỏ số tiền mặt và đồ trang sức được thu hồi.
Quy mô của vụ cướp Lufthansa khiến nó trở thành một trong những vụ án được điều tra lâu nhất ở Mỹ. Vụ bắt giữ gần nhất liên quan đến vụ cướp được thực hiện vào năm 2014. Vincent Asaro, thành viên cấp cao của gia đình mafia Bonanno, bị bắt vì anh họ làm chứng chống lại ông ta. Tuy nhiên, ngày 12/11/2015, Asaro được tuyên trắng án.
Vụ cướp Lufthansa được đạo diễn Martin Scorsese dựng thành phim Goodfellas và đoạt giải Oscar năm 1990, trong đó Robert DeNiro hóa thân vào nhân vật dựa trên Burke. Vụ cướp còn được lấy cảm hứng cho cuốn sách Wiseguy: Life in a Mafia Family (1985) của Nicholas Pileggi, và hai bộ phim truyền hình nổi tiếng - The 10 Million Dollar Getaway (1991) và The Big Heist (2001).
Tuệ Anh (Theo Insider, Crimelibrary)
Xem thêm: lmth.1586244-uam-mad-ueit-uht-nam-ned-nad-gneit-tehk-neit-ohk-pouc-uv/ten.sserpxenv