Tỉ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra của Việt Nam thấp hơn mức bình quân chung
Mới đây, Bộ Tài chính nhận được kiến nghị của cử tri thành phố Hà Nội do Ban Dân nguyện (Ủy ban Thường vụ Quốc hội) chuyển sang, phản ánh: "Hiện nay, Bộ Tài chính áp dụng cơ cấu tính giá xăng dầu đưa vào các loại thuế, phí quá cao như: Thuế nhập khẩu 10%, VAT 10%, thuế tiêu thụ đặc biệt 10%, thuế bảo vệ môi trường 3.800-4.000 đồng/lít. Bốn loại thuế chiếm 38% giá xăng dầu.
Chi phí khác như chi phí vận chuyển, định mức kinh doanh, lợi nhuận định mức, quỹ bình ổn chiếm 62%, dẫn đến giá xăng dầu trong nước cao, chỉ số giá tiêu dùng CPI cao.
Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu điều chỉnh các loại thuế và phí cho phù hợp để giảm giá xăng dầu, góp phần giảm bớt khó khăn cho nhân dân", cử tri huyện Phú Xuyên nêu.
Văn bản trả lời do Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc ký nêu diễn biến giá xăng dầu trong thời gian gần đây. Theo đó, từ đầu năm 2021 đến nay, giá dầu thô trên thị trường thế giới liên tục thay đổi khó lường, trong đó có những đợt tăng, giảm với biên độ khá lớn.
Theo dự báo của nhiều tổ chức quốc tế, giá xăng dầu thời gian tới sẽ còn diễn biến phức tạp, khó dự báo và sẽ chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, đặc biệt là các biện pháp can thiệp vào nguồn cung của các nước, các vấn đề chính trị ở một số khu vực cũng như sự phục hồi kinh tế của các nước trên thế giới sau đại dịch COVID-19.
Theo văn bản trả lời, ở trong nước, để giảm thiểu ảnh hưởng do sự biến động giá xăng dầu trên thị trường thế giới đối với giá xăng dầu trong nước, Liên Bộ Công Thương - Tài chính đã sử dụng hiệu quả Quỹ Bình ổn giá, đảm bảo phù hợp với quy định.
Về chính sách thuế, cơ cấu thuế, phí và các yếu tố cấu thành trong công thức giá cơ sở mặt hàng xăng dầu, theo Bộ Tài chính, hiện hành, các sắc thuế áp dụng đối với mặt hàng xăng dầu gồm: thuế nhập khẩu (đối với xăng dầu nhập khẩu), thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (đối với xăng) và thuế bảo vệ môi trường (không thu phí, lệ phí đối với xăng dầu), đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn của Việt Nam.
So với nhiều nước trên thế giới, tỉ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra của nước ta hiện nay vẫn thấp hơn mức bình quân chung. Tỉ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng 45- 60% (ngoại trừ một số nước có trữ lượng dầu mỏ lớn thì có tỉ trọng thấp hơn), trong khi đó, đối với nước ta, tỉ trọng thuế đối với xăng khoảng 38% và đối với dầu khoảng 20%.
Ngoài ra, trong giá bán xăng dầu còn có khoản chi phí vận chuyển, lợi nhuận định mức nhưng các khoản này cũng chỉ chiếm khoảng từ 5%-8% mức giá cơ sở của mặt hàng xăng dầu.
Giá xăng "gánh" những sắc thuế nào?
Bộ Tài chính cho biết, về thuế nhập khẩu, xăng dầu nhập khẩu hiện nay chủ yếu từ các nước ASEAN, Hàn Quốc với mức thuế nhập khẩu FTA là 8% đối với xăng và 0% đối với dầu, đảm bảo phù hợp với cam kết quốc tế.
Về thuế VAT, theo quy định hiện nay, áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; mức thuế suất 5% đối với một số nhóm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu như nước sạch, sản phẩm nông nghiệp và mức thuế suất 10% đối với tất cả các hàng hoá, dịch vụ chịu thuế còn lại, trong đó có mặt hàng xăng dầu.
Về thuế tiêu thụ đặc biệt, hiện hành, chỉ có mặt hàng xăng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất 10% (không thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dầu các loại). Riêng xăng sinh học E5 có mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 8% và xăng E10 là 7%. Đây là mức trung bình thấp so với nhiều nước.
Về thuế bảo vệ môi trường, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quy định mức thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng xăng dầu, cụ thể: xăng (trừ etanol) là 4.000 đồng/lít; dầu diezel, dầu mazut và mỡ nhờn: 2.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít. Đối với các mặt hàng xăng sinh học như xăng E5, E10 - chứa 5% - 10% etanol thì chỉ tính thuế bảo vệ môi trường đối với lượng xăng gốc hoá thạch kết cấu trong xăng sinh học.
Về các chi phí vận chuyển, định mức kinh doanh, lợi nhuận định mức, theo Bộ Tài chính, hiện nay, các khoản chi phí khác cấu thành trong giá cơ sở mặt hàng xăng dầu được quy định cụ thể tại Nghị định 83/2014, Nghị định 95/2021 và Thông tư 104/2021.
Các khoản chi phí này được rà soát, đánh giá hàng năm trên cơ sở các chi phí thực tế hợp lý, hợp lệ phát sinh tại các thương nhân, đầu mối kinh doanh xăng dầu.
Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính sẽ thực hiện thông báo điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Hiện nay, toàn bộ các khoản chi phí định mức áp dụng trong công thức giá cơ sở chiếm khoảng từ 5- 8% mức giá cơ sở hiện hành.
Về điều hành giá xăng dầu trong nước thời gian qua, hiện nay giá xăng dầu đang được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo quy định tại Nghị định 83/2014 và Nghị định 95/2021 của Chính phủ.
"Qua theo dõi giá xăng dầu tại một số quốc gia, giá xăng dầu của nước ta hiện đang thấp hơn so với mặt bằng chung của nhiều nước trong khu vực", Bộ Tài chính khẳng định, đồng thời dẫn số liệu của Global Petrol Prices ngày 31.1.2022 - cho thấy, giá xăng của các nước có chung đường biên giới với Việt Nam như Trung Quốc là 26.611 đồng/lít, Lào là 30.665 đồng/lít và Campuchia là 26.184 đồng/lít.