Mới đây, trên cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, bộ này đã công bố tài liệu họp Đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024; điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023. Trong đó đề cập việc nghiên cứu, rà soát Luật Thuế bảo vệ môi trường (BVMT).
Theo tài liệu từ Bộ Tư pháp, Luật Thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012.
Quá trình triển khai thực hiện cho thấy, chính sách thuế bảo vệ môi trường là công cụ tài chính quan trọng góp phần hạn chế việc sản xuất, nhập khẩu, tiêu dùng các hàng hóa khi sử dụng gây ô nhiễm môi trường, khuyến khích việc sản xuất, nhập khẩu, sử dụng các hàng hóa thân thiện với môi trường, góp phần giảm phát thải tại nguồn, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội; từ đó đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện chính sách thuế bảo vệ môi trường cũng đã phát sinh một số hạn chế, bất cập, từ đó đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, rà soát để sửa đổi cho phù hợp với chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, các Hiệp hội và từ tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật thuế BVMT, Bộ Tài chính đã tiến hành rà soát toàn bộ các quy định của Luật thuế BVMT.
Kết quả rà soát cho thấy, có 3 Điều không phát sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện (Điều 1, Điều 11, Điều 12), có 10 Điều có phát sinh vướng mắc cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung (Điều 2, Điều 3, Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10 và Điều 13). Các nội dung vướng mắc chủ yếu liên quan đến: đối tượng chịu thuế; đối tượng không chịu thuế; người nộp thuế; khung thuế; thời điểm tính thuế; và khai thuế, tính thuế, nộp thuế.
Điều chỉnh biểu khung thuế BVMT
Qua rà soát cho thấy, khung thuế BVMT đối nhóm xăng, dầu, mỡ nhờn được quy định như sau: xăng, trừ etanol là 1.000-4.000 đồng/lít; nhiên liệu bay là 1.000-3.000 đồng/lít; dầu diesel là 500-2.000 đồng/lít; dầu hỏa là 300-2.000 đồng/lít; dầu mazut là 300-2.000 đồng/lít; dầu nhờn là 300-2.000 đồng/lít và mỡ nhờn là 300-2.000 đồng/kg. Mức thuế BVMT đối với xăng dầu (trừ dầu hỏa) đã bằng mức tối đa trong khung thuế (trừ giai đoạn từ 01/8/2020 đến hết 31/12/2022 phải giảm thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trước bối cảnh dịch Covid-19, góp phần kiềm chế lạm phát do giá xăng dầu thế giới tăng cao).
Theo các nghiên cứu cho thấy, xăng, dầu, mỡ nhờn là sản phẩm có chứa nhiều chất gây ô nhiễm môi trường, gây hại đến an toàn sức khỏe và môi trường sống như chì, lưu huỳnh, benzene...
So với nhiều nước trên thế giới, tỷ trọng thuế trong giá xăng dầu bán ra của nước ta hiện nay vẫn thấp hơn mức bình quân chung. Tính toán theo mức thuế BVMT đối với xăng dầu tại Nghị quyết 579/2018/UBTVQH14 (4.000 đồng/lít đối với xăng và 2.000 đồng/lít đối với dầu diesel), nếu giá dầu thô thế giới trong khoảng từ 90-100 USD/thùng thì tỷ lệ thuế trong giá xăng, dầu khoảng 31% đối với xăng, 18,7% đối với dầu. Trong khi đó, tỷ trọng thuế trong giá bán xăng dầu ở nhiều nước chủ yếu trong khoảng 40-55% đối với xăng và 35-50% đối với dầu (ngoại trừ một số quốc gia có trữ lượng dầu mỏ lớn thì có tỷ trọng thấp hơn).
Việt Nam đã và đang phải thực hiện cắt giảm dần thuế nhập khẩu theo cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (Hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do). Ngoài ra, giá dầu thô và giá xăng dầu thành phẩm thế giới thời gian qua biến động rất khó lường, cần phải có giải pháp để ổn định giá xăng dầu, kiềm chế lạm phát, trong đó có các giải pháp về thuế.
Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố, đề nghị sửa đổi khung thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn theo hướng: mức thuế tối thiểu giữ bằng mức thuế tối thiểu hiện hành, điều chỉnh tăng mức thuế tối đa để tạo dư địa điều chỉnh chính sách khi cần thiết theo yêu cầu quản lý nhà nước. Riêng đối với dầu hỏa, đề nghị giữ khung thuế BVMT như hiện hành vì dầu hỏa là mặt hàng thiết yếu phục vụ cho đa số người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra, đề nghị đổi đơn vị tính đối với dầu mazut từ “lít” thành “kg” cho phù hợp với thực tế.
Việc điều chỉnh khung thuế BVMT theo định hướng nêu trên sẽ góp phần đảm bảo thuận lợi trong công tác điều hành nhằm chủ động ứng phó khi giá xăng dầu thế giới biến động mạnh, phù hợp với xu hướng điều chỉnh tăng thuế đối với các sản phẩm nhiên liệu hóa thạch của các nước để thực hiện cam kết quốc tế về giảm mức phát thải ròng. Ví dụ: khi giá xăng dầu thế giới tăng cao, để góp phần kiềm chế lạm phát thì thực hiện điều hành mức thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn ở mức sàn như hiện hành; khi phải thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết quốc tế cũng như phải thực hiện biện pháp mạnh để giảm mức thải ròng về “0” vào năm 2050 theo cam kết của Chính phủ tại COP26 thì thực hiện điều chỉnh tăng mức thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn cho phù hợp.
Bổ sung mức thuế BVMT đối với xăng sinh học
Hiện nay, mặt hàng xăng sinh học phổ biến trên thị trường trong nước là xăng E5RON92 có hàm lượng etanol khoảng 5% và xăng gốc hóa thạch (xăng không chì) chiếm 95%. Xăng sinh học là sản phẩm khi sử dụng ít gây ô nhiễm môi trường hơn so với xăng gốc hóa thạch. Tuy nhiên, quy định chỉ không thu thuế BVMT đối với etanol tại Luật thuế BVMT chưa tạo được sự chênh lệch đủ lớn về giá giữa xăng sinh học và xăng gốc hóa thạch nên chưa có tác động mạnh nhằm khuyến khích việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng xăng sinh học thay thế xăng gốc hóa thạch.
Để khuyến khích hơn nữa việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng xăng sinh học đề nghị bổ sung quy định mức thuế BVMT ưu đãi đối với xăng sinh học theo hướng:
Một là, quy định mức thuế BVMT ưu đãi để đảm bảo số thuế BVMT phải nộp đối với xăng sinh học phải thấp hơn so với số thuế BVMT phải nộp theo cách tính hiện hành.
Hai là, phân loại mức thuế BVMT ưu đãi đối với từng loại xăng sinh học theo tỷ lệ phối trộn etanol (tương tự như thuế TTĐB), trong đó xăng sinh học có tỷ lệ phối trộn etanol càng cao thì áp dụng mức thuế BVMT thấp hơn.
Việc quy định mức thuế BVMT ưu đãi đối với xăng sinh học sẽ góp phần khuyến khích việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng xăng sinh học; đảm bảo đồng bộ về chính sách ưu đãi đối với xăng sinh học. Đồng thời, góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của người dân chuyển sang sử dụng xăng sinh học, đây là sản phẩm ít gây ô nhiễm môi trường hơn so với xăng gốc hóa thạch.
Tác động trực tiếp đến giá bản lẻ xăng sinh học: Việc quy định mức thuế BVMT đối với xăng sinh học thấp hơn mức hiện hành sẽ góp phần làm giảm tỷ trọng thuế trong giá bán lẻ xăng dầu, qua đó tác động làm giảm giá bán lẻ xăng sinh học.
Góp phần thực hiện tốt các cam kết của Chính phủ về BVMT; Góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải ròng về “0” vào năm 2050 theo cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26.
Tuệ Minh