Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những vấn đề được đưa ra để lấy ý kiến người dân trong quá trình xây dựng Luật Đất đai 2024. Sau khi được Quốc hội thông qua, Luật Đất đai 2024 cũng có những điều chỉnh so với hiện nay.
Kế thừa cơ bản Luật Đất đai 2013
Kế thừa quy định về thẩm quyền tại Luật Đất đai 2013, Luật Đất đai 2024 quy định tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp hoặc một trong các bên tranh chấp có giấy tờ chứng mình về quyền sử dụng đất sẽ do toà án giải quyết.
Cụ thể, luật mới quy định cụ thể các loại giấy tờ gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 của Luật này (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính; sổ mục kê, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980 mà có tên người sử dụng đất;…)
Đối với các tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có các giấy tờ nêu trên thì các bên tranh chấp chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai là: Khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Theo đó, trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết. Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện mà các bên tranh chấp không gửi đơn đến cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm này thì quyết định giải quyết tranh chấp của Chủ tịch UBND cấp huyện có hiệu lực thi hành.
Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện, các bên tranh chấp có quyền khởi kiện tại tòa án theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính hoặc khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Quyết định giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.
Đối với tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết.
Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh mà các bên tranh chấp không gửi đơn đến cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm này thì quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.
Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các bên tranh chấp có quyền khởi kiện tại tòa án theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính hoặc khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường. Quyết định giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường có hiệu lực thi hành.
So với Luật Đất đai 2013, Luật Đất đai 2024 đã quy định cụ thể về thời gian để khiếu nại, hoặc khởi kiện hành chính nếu không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch UBND cấp có thẩm quyền.
Không thi thành quyết định của Chủ tịch UBND sẽ bị cưỡng chế
Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Bộ trưởng Bộ TN&MT, Chủ tịch UBND cấp có thẩm quyền có hiệu lực thi hành phải được các bên nghiêm chỉnh chấp hành. Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành mà các bên hoặc một trong các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành. Thẩm quyền cưỡng chế thuộc về Chủ tịch UBND cấp huyện nơi có đất tranh chấp.
Bổ sung thẩm quyền của trọng tài
Đáng chú ý, Luật Đất đai 2024 quy định tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai sẽ do tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc do trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết theo quy định của pháp luật về trọng tài thương mại.
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất khi được Tòa án, Trọng tài thương mại Việt Nam yêu cầu để làm căn cứ cho giải quyết tranh chấp đất đai.
Dù vậy, luật mới cũng chỉ quy định về khái niệm tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai, chưa có khái niệm về tranh chấp liên quan đến đất đai.
Đây là vấn đề mà thực tiễn hiện nay nhiều ý kiến cho rằng vẫn có sự nhầm lẫn giữa "tranh chấp đất đai" và "tranh chấp liên quan đến đất đai".
Trước đây, dự thảo Luật Đất đai sửa đổi từng quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai theo hướng chuyển toàn bộ sang cho TAND giải quyết. UBND các cấp chỉ cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất để làm căn cứ cho tòa xử lý.
Điều này gây nhiều băn khoăn về vấn đề nhân lực của ngành toà án, về việc liệu toà án có đủ cơ sở để giải quyết toàn bộ tranh chấp trong khi UBND các cấp mới là cơ quan nắm rõ về nguồn gốc đất đai...
Sau nhiều lần tiếp thu, chỉnh lý thì Luật Đất đai 2024 đã quy định như trên.
Luật Đất đai 2024: Bắt buộc hoà giải tất cả các loại tranh chấp đất đai tại xã trước khi ra toà
(PLO)- Luật Đất đai 2024 quy định trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai (toà án hoặc UBND cấp có thẩm quyền), các bên tranh chấp phải thực hiện hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.