Đưa ra nhận định tại hội nghị Phát triển ngành tôm năm 2022 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức, ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng: Tuy giá thành sản xuất tôm đang tăng lên nhưng dự kiến ngành tôm sẽ tăng trưởng trên 10% xuất khẩu năm nay và vượt mốc 4 tỷ USD trong năm 2022.
Theo đó, chi phí nhiên liệu, phí vận chuyển quốc tế tiếp tục tăng là những yếu tố tác động mạnh mẽ lên giá thành sản phẩm đối với con tôm của Việt Nam năm 2022.
Ông Hòe cho rằng việc giá thành tăng dẫn đến làm giảm sức cạnh tranh của tôm Việt Nam so với tôm Ấn Độ, Ecuador và Indonesia. Theo ước tính của lãnh đạo VASEP trong năm nay, tăng trưởng về giá trị của tôm khoảng 7% - 10%; tăng trưởng về sản lượng tôm sẽ vào khoảng 2% - 3%.
Năm 2021, mặc dù ngành nuôi trồng thủy sản nói chung, ngành tôm nói riêng tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của thời tiết khí hậu bất thường, đặc biệt ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, tuy nhiên, sản lượng tôm nuôi các loại đạt 970 nghìn tấn, tăng 4,3 % so với năm 2020, trong đó tôm nước lợ đạt 920 nghìn tấn.
Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2022, Việt Nam phấn đấu sản xuất khoảng 260 nghìn - 270 nghìn con tôm bố mẹ. Trong đó, tôm thẻ chân trắng 200 nghìn - 210 nghìn con, tôm sú 60 nghìn con; tôm giống khoảng 140 - 150 tỷ con (tôm thẻ chân trắng 100 - 110 tỷ con và tôm sú 30 - 40 tỷ con). Diện tích nuôi tôm đạt 750.000 ha; sản lượng tôm các loại 980 nghìn tấn. Trong đó tôm sú 275 nghìn tấn, tôm thẻ chân trắng 675 nghìn tấn, còn lại là tôm khác.
Thống kê của VASEP cho thấy trong năm 2022, Mỹ, EU và Nhật Bản vẫn là những thị trường chính xuất khẩu tôm của Việt Nam. Bên cạnh đó cần tập trung thêm các thị trường tiềm năng khác như: Canada, Australia, Anh… Thị trường Nga sẽ bị đứt đoạn do các nguy cơ về thanh toán và vận chuyển và sẽ khó phục hồi trong thời gian ngắn.
Trong 2 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt 550.428 tấn, tăng 46,3% so với cùng kỳ 2021.
Tại Hội nghị, đại diện các tỉnh Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu cho rằng, bên cạnh những kết quả đã đạt được, ngành sản xuất nuôi tôm của nước ta vẫn còn bộc lộ những bất cập, hạn chế.
Điển hình là nguồn tôm bố mẹ phải phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu và khai thác từ tự nhiên. Trong nước mới cung cấp được một phần, dẫn tới người nuôi tôm cũng như doanh nghiệp chưa chủ động được trong sản xuất. Còn nhiều cơ sở chưa được kiểm tra cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thuỷ sản theo quy định của Luật Thuỷ sản, nhưng vẫn được cấp chứng nhận kiểm dịch.
Bên cạnh đó, giá thành sản xuất tôm ở nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân là do thức ăn nuôi tôm vẫn đang chiếm tỷ lệ lớn trong giá thành sản xuất (khoảng trên 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp).
Chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; giá cước vận chuyển vật tư tăng cao. Cộng thêm hạ tầng vùng nuôi chưa đảm bảo, nhất là hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản chủ yếu vẫn dùng chung với hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật.
Theo thông tin từ Báo Chính phủ, đại diện Sở NN&PTNT tỉnh Sóc Trăng kiến nghị Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cần sớm có tham mưu để ổn định, thống nhất hệ thống cơ quan quản lý thủy sản từ trung ương đến địa phương; có chính sách thu hút, đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ kỹ thuật, Ban quản trị các hợp tác xã và tổ hợp tác, doanh nghiệp, trang trại và các cơ sở nuôi để có khả năng tiếp nhận, ứng dụng và chuyển giao công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản.
Đồng thời Tổng cục Thủy sản xem xét đề xuất hỗ trợ tiền điện cho người nuôi tôm, cụ thể giảm khoảng 30% trong vòng một năm kể từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022; Bố trí các chương trình cho vay vốn ưu đãi lãi suất, giảm lãi suất và giãn nợ cho các bên tham gia trong chuỗi ngành hàng thủy sản để phục hồi sản xuất trong điều kiện bình thường mới.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến đề nghị các địa phương đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ vào nuôi tôm. Trong đó, nhấn mạnh vai trò của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, cần đẩy mạnh nghiên cứu, nhân rộng sản xuất tôm bố mẹ chất lượng cao, hạn chế tối đa nhập khẩu.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng yêu cầu các đơn vị, doanh nghiệp tăng cường tổ chức liên kết trong chuỗi tôm. Các cơ sở nuôi nhỏ lẻ cần liên kết thành hợp tác xã, tổ hợp tác.
Việt Nam đứng trong top 4 nước xuất khẩu nhiều tôm sang Mỹ
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Mỹ năm 2021 tăng trưởng mạnh cả về khối lượng lẫn trị giá. Điều này giúp nước ta đứng thứ 4 trong số các thị trường xuất khẩu tôm sang Mỹ.
Cụ thể, Việt Nam xếp thứ 4 trong cuộc đua xuất khẩu tôm sang Mỹ. Xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Mỹ năm 2021 đạt 88.161 tấn, trị giá 969,2 triệu USD, tăng 33% về khối lượng và 39% về giá trị so với năm 2020.
Tôm Việt Nam được nhập khẩu vào 17 bang của Mỹ trong đó bang New York ghi nhận khối lượng nhập khẩu nhiều nhất với 31.647 tấn, chiếm 36% tổng khối lượng nhập khẩu tôm từ Việt Nam vào Mỹ, bang California nhập nhiều thứ hai với 23.995 tấn, chiếm 27% tổng khối lượng tôm nhập khẩu từ Việt Nam.
Năm 2021, trên thị trường Mỹ, mặc dù giá trung bình xuất khẩu của tôm Việt Nam vẫn còn phải cạnh tranh mạnh với các nguồn cung đối thủ như Ấn Độ, Indonesia nhưng tốc độ tăng trưởng đã ghi nhận cao hơn các nước này.
Tôm nuôi (tôm thẻ, tôm sú) lột vỏ đông lạnh (tôm thịt) là sản phẩm Mỹ nhập khẩu vào nhiều nhất trong năm qua. Sản phẩm này chiếm trên 1/4 khối lượng và giá trị nhập khẩu tôm Mỹ với 223 nghìn tấn với giá trị trên 2 tỷ USD. Ấn Độ là nguồn cung lớn nhất mặt hàng này cho Mỹ, Ecuador đứng thứ hai, Indonesia và Việt Nam lần lượt đứng thứ ba và tư. Giá trung bình nhập khẩu mặt hàng này từ Ấn Độ đạt 8,8 USD/kg, Ecuador 8,6 USD/kg, Indonesia 9,9 USD/kg và Việt Nam 12 USD/kg.
Tôm thịt đông lạnh loại khác (tôm nước lạnh, tôm biển…) là sản phẩm nhập khẩu lớn thứ 2, chiếm 19% khối lượng và 17% giá trị với 168 nghìn tấn, trị giá gần 1,4 tỷ USD. Ấn Độ là nguồn cung lớn nhất, Việt Nam đứng thứ tư. Giá nhập khẩu trung bình mặt hàng này từ Ấn Độ đạt 8,1 USD/kg, Việt Nam 10,6 USD/kg.
Tiếp theo là tôm chế biến khác và tôm bao bột đông lạnh chiếm lần lượt 13% và 16% khối lượng và giá trị nhập khẩu tôm của Mỹ, với 120 nghìn tấn, trị giá 1,3 tỷ USD. Ấn Độ là nguồn cung lớn nhất, Việt Nam đứng thứ hai. Giá trung bình nhập khẩu của Ấn Độ đạt 10 USD/kg, Việt Nam 11,1 USD/kg.
Năm 2022, Mỹ tiếp tục là thị trường xuất khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam
Nhận định về thị trường xuất khẩu, ông Trương Đình Hòe - Tổng Thư ký VASEP - phân tích, năm 2021 tôm Việt Nam xuất vào Mỹ lần đầu tiên có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD với gần 90 nghìn tấn sản phẩm, tăng 20% so với năm 2020. Đây là bất ngờ cũng là nỗ lực của chính các doanh nghiệp, địa phương trong công tác vừa chống dịch Covid-19, vừa tập chung sản xuất, chế biến và xuất khẩu.
Tuy nhiên, tổng nhập khẩu tôm của Mỹ cũng có kỷ lục mới trong năm 2021 với gần 900 nghìn tấn tôm nhập khẩu, giá trị hơn 8 tỷ USD, tăng 20% về sản lượng và 25% về giá trị so với năm 2020, trong đó Mỹ tăng nhập khẩu gấp đôi từ Ecuador và 25% từ Ấn Độ. Việt Nam có thế mạnh về tôm chế biến, ngược lại với Ấn Độ, Ecuador chiếm thị phần lớn với tôm vỏ và tôm PD (tôm đã sơ chế lột vỏ, lấy chỉ, rút tim).
Năm 2022, ông Trương Đình Hòe nhận định, Mỹ vẫn sẽ là thị trường lớn nhất của tôm Việt Nam. Với sự hồi phục nhu cần của chuỗi HORECA và với thế mạnh tôm chế biến, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh.
Đối với thị trường EU, sau ảnh hưởng của dịch Covid-19, xuất khẩu tôm vào EU giảm trong quý III và bắt đầu tăng mạnh trở lại trong quý IV/2021, phần lớn là xuất khẩu tôm cỡ nhỏ. Năm 2022, nhu cầu tiêu thụ tôm tại thị trường EU bắt đầu tăng trở lại, đặc biệt tại Anh, Đức, Hà Lan, Bỉ,... Mức tiêu thụ tại EU sẽ bị tác động bởi chiến tranh Nga - Ukraina phần nào ảnh hưởng đến nhu cầu và kế hoạch kinh doanh trong tương lai. Xu hướng dự trữ thực phẩm có thể làm tăng nhu cầu nhập khẩu nhưng đi kèm giá thấp. Tuy nhiên, thị trường EU cần thêm thời gian để dự báo tăng đáng kể trong năm 2022.
Hương Anh (tổng hợp)