Việc tặng cho bất động sản hiện nay được điều chỉnh bởi nhiều văn bản như Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Bộ luật Dân sự.
Theo ThS Ngô Gia Hoàng, giảng viên Khoa luật thương mại Trường ĐH Luật TP.HCM, Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Theo đó, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu bồi thường, bên được tặng cho đồng ý nhận”.
Tặng cho bất động sản là giao dịch không mang tính chất hàng hóa - tiền tệ, bên tặng cho không nhận bất kỳ một giá trị vật chất nào, thể hiện tình cảm và sự quan tâm của chủ thể tặng cho.
Về nghĩa vụ tài chính, trường hợp tặng cho bất động sản giữa những người thân trong gia đình như vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội (ngoại), bà nội (ngoại) với cháu nội (ngoại); anh, chị, em ruột thì sẽ được miễn lệ phí trước bạ và được miễn thuế thu nhập cá nhân.
Điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của Luật Đất đai và điều kiện tặng cho nhà ở thực hiện theo Luật Nhà ở. Theo đó, nhà đất được tặng cho phải có giấy chứng nhận (trừ trường hợp tổ chức tặng cho nhà tình nghĩa, nhà tình thương), không có tranh chấp, không bị kê biên, còn trong thời hạn sử dụng, sở hữu...
Chỉ có một số chủ thể nhất định mới có quyền tặng cho quyền sử dụng đất (cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư không được tặng cho quyền sử dụng đất) và quyền này phụ thuộc vào nguồn gốc đất, chủ thể sử dụng đất.
Ví dụ, đất được Nhà nước cho thuê thu tiền hằng năm thì không được tặng cho. Phạm vi tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân rộng hơn khi họ được tặng cho quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam...
Trong một vài trường hợp đặc biệt, Luật Đất đai còn đặt ra điều kiện đối với bên nhận tặng cho. Ví dụ, hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa. Hộ gia đình, cá nhân không được nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó.
Hộ gia đình, cá nhân nhận không được tặng cho quyền sử dụng đất nông nghiệp nếu vượt quá hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của Luật Đất đai.
Người nước ngoài không được phép nhận tặng cho quyền sử dụng đất và không được Luật Đất đai quy định là người sử dụng đất ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo Luật Nhà ở, tổ chức, cá nhân nước ngoài được nhận tặng cho nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ. Việc sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân bị hạn chế về số lượng và thời hạn sở hữu theo quy định của Luật Nhà ở.