Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn đặt mục tiêu giảm lãi suất vào cuối năm nay. Đối với nhiều hộ gia đình cũng như doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ, cắt giảm lãi suất không thể đến sớm như họ mong đợi. Nhưng đối với các công ty lớn có khả năng khai thác thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các nhà đầu tư đang hưởng lợi từ thị trường chứng khoán sôi động, động thái nới lỏng từ Fed dường như không quá cần thiết.
Fed hôm thứ Tư đã giữ nguyên mức lãi suất 5,25%-5,5% – mức cao nhất trong hơn hai thập kỷ, và dự kiến sẽ có 3 đợt cắt giảm lãi suất trong năm nay.
Những thay đổi về lãi suất chuẩn có tác động mạnh mẽ đến nhiều loại lãi suất ngắn hạn, như lãi suất tiền gửi ngân hàng và quỹ thị trường tiền tệ. Nhưng đối với lãi suất dài hạn, chẳng hạn như lãi suất trái phiếu doanh nghiệp, tác động có thể ít hơn.
Nhiều người cho rằng lãi suất mục tiêu của Fed ở mức hạn chế. Đối với người Mỹ, họ chỉ cần nhìn vào lãi suất thẻ tín dụng là đủ hiểu. Theo Fed, lãi suất trung bình đối với các gói thẻ tín dụng của ngân hàng thương mại trong quý 4/2023 là 21,5%. Đây là mức cao nhất trong 30 năm và thấp hơn nhiều so với mức 14,9% trong quý 4/2019 – trước khi đại dịch xảy ra.
Nghiên cứu gần đây của cựu Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Larry Summers và các đồng tác giả cho thấy rằng chi phí vay cao của các hộ gia đình thậm chí có thể giúp giải thích điều vẫn còn hơi bí ẩn: Tại sao, dù thị trường việc làm mạnh mẽ và lạm phát ở mức vừa phải, tâm trạng của người tiêu dùng vẫn u ám?
Các doanh nghiệp nhỏ cũng sử dụng nhiều thẻ tín dụng. Theo một khảo sát gần đây, 56% trong số họ thường xuyên sử dụng thẻ tín dụng để chi tiêu. Các hạn mức tín dụng cũng gắn liền với lãi suất ngắn hạn. Những hạn chế tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ có thể dẫn đến tăng trưởng việc làm ít hơn. Các doanh nghiệp có ít hơn 100 nhân sự chiếm khoảng 1/3 số việc làm tư nhân, trong khi nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp nhỏ đang phát triển là yếu tố quyết định tăng trưởng việc làm ở Mỹ.
Trong khi đó, lãi suất dài hạn gần như không tăng nhiều với trước đại dịch như lãi suất chuẩn mà Fed nhắm tới. Lãi suất trái phiếu kho bạc 10 năm ở mức khoảng 4,3%. Mặc dù cao hơn so với trước đại dịch, nhưng về mặt lịch sử thì con số này không cao lắm và thấp hơn đáng kể so với mức 5% hồi mùa thu năm ngoái.
Vào tháng 2/2005, Chủ tịch Fed hồi ấy là Alan Greenspan tuyên bố lãi suất dài hạn thấp so với lãi suất ngắn hạn là một “câu hỏi hóc búa”. Vào thời điểm đó, lãi suất dài hạn ở mức tương đương hiện tại, với lợi suất kỳ hạn 10 năm vào khoảng 4,2%. Nhưng mục tiêu của Fed về lãi suất chuẩn thấp hơn nhiều, ở mức 2,5%.
Lãi suất dài hạn tương đối thấp một phần là do các nhà đầu tư kỳ vọng rằng Fed sẽ hạ lãi suất vào một thời điểm nào đó. Nó cũng có thể phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư rằng ngân hàng trung ương sẽ kiên định với nỗ lực kiểm soát lạm phát, theo nhà kinh tế Anna Cieslak của Đại học Duke.
Các nhà đầu tư nghĩ rằng Fed sẽ có thể kiểm soát lạm phát và tránh để nền kinh tế rơi vào suy thoái. Điều này được phản ánh qua lợi suất trái phiếu doanh nghiệp thấp và thị trường chứng khoán tăng vọt. Sự khác biệt/chênh lệch giữa lãi suất trái phiếu kho bạc và trái phiếu doanh nghiệp đang thu hẹp hơn. Cổ phiếu cũng đạt đỉnh cao mới và S&P 500 đã tăng hơn 30% so với một năm trước.
Trong khi đó, lãi suất thế chấp – vốn quan trọng đối với nhiều hộ gia đình, vẫn cao hơn nhiều so với trước đại dịch, đồng thời chênh lệch giữa chúng và lãi suất kho bạc ngày càng tăng. Tỷ lệ thế chấp cao đã khiến nhiều người không thể mua nhà.
Kết quả là các công ty lớn có thể khai thác thị trường đại chúng được hưởng điều kiện vay vốn dễ dàng hơn nhiều doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình, trong khi tài sản chứng khoán của các nhà đầu tư ngày càng tăng đang mang lại một luồng gió thuận cho nền kinh tế. Các điều kiện tài chính tổng thể của Mỹ ngày càng ít chặt chẽ hơn. Chỉ số riêng của Fed, dựa trên một loạt thước đo bao gồm lãi suất qua đêm, lãi suất trái phiếu, lãi suất thế chấp, giá nhà và cổ phiếu, cho thấy các điều kiện trong tháng 1 ở mức nới lỏng nhất kể từ tháng 8/2022.
Nhà kinh tế học Jonathan Wright của Johns Hopkins nhận định: “Cuối cùng, điều mà các nhà hoạch định chính sách có thể trực tiếp kiểm soát nhất là lãi suất ngắn hạn”.
Theo WSJ