Ông Phan Ngọc Dạng trình bày, ông là chủ sử dụng thửa đất hơn 1.200 m2 tọa lạc tại TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk và đã được cấp giấy chứng nhận (GCN). Tháng 10-2018, ông bán cho bà LTL một phần diện tích hơn 500 m2 với giá 4,5 tỉ đồng. Bà L. đưa trước cho bên bán hơn 1 tỉ đồng và cam kết sau khi tách thửa xong sẽ thanh toán hết.
Giá đất 4,9 tỉ, ghi trong hợp đồng 150 triệu
Sau đó, ông Dạng ủy quyền cho bà L. tách phần đất hơn 500 m2 mà hai bên giao dịch mua bán thành ba thửa nhỏ. Sau khi bà L. tách thửa xong, tháng 12-2018 hai bên đến một văn phòng công chứng để lập hợp đồng chuyển nhượng.
Lúc này, bà L. yêu cầu ghi giá trị chuyển nhượng là 800 triệu đồng để giảm thuế. Bà L. vẫn cam kết sau khi ông Dạng hoàn tất việc sang tên trên GCN xong thì bà sẽ trả dứt điểm số tiền còn lại nhưng cuối cùng bà không thực hiện.
Từ đó, ông Dạng khởi kiện yêu cầu TAND TP Buôn Ma Thuột hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông với bà L. Ngày 2-4-2019, tòa án thụ lý vụ án thì 22 ngày sau vợ chồng bà L. bán ba thửa đất cho người phụ nữ tên N. Bà N. đã hoàn tất thủ tục sang tên và thế chấp ba GCN cho ngân hàng để vay 2 tỉ đồng.
Khu đất liên quan đến vụ án. Ảnh: Q.NAM
Trong vụ kiện này, bà N. là người được tòa xác định là người liên quan có yêu cầu độc lập buộc bà L. phải tiếp tục thực hiện hợp đồng vì sau khi nhận đủ tiền thì bà L. không giao đất. Ngoài ra, bà N. yêu cầu làm rõ việc bà mua đất của bà L. với số tiền thực tế 4,9 tỉ đồng nhưng bà L. yêu cầu ghi trong hợp đồng công chứng mua bán chỉ là 150 triệu đồng.
Về phần mình, bà L. có yêu cầu phản tố, yêu cầu vợ chồng ông Dạng phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất và bàn giao ba thửa đất đất cho bà.
Tháng 3-2020, TAND TP Buôn Ma Thuột xử sơ thẩm đã bác đơn khởi kiện của ông Dạng, tuyên chấp nhận yêu cầu phản tố của bà L. Tòa cũng chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà N. tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng bà L. với bà N. có hiệu lực; bác việc bà N. yêu cầu ông Dạng phải bàn giao quyền sử dụng đất đối với ba thửa đất trên.
Tòa phúc thẩm: Có dấu hiệu hình sự
Tháng 6-2020, HĐXX TAND tỉnh Đắk Lắk xử phúc thẩm, tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tòa nhận định hai hợp đồng chuyển nhượng đất trên là cùng một đối tượng giao dịch nhưng cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết hợp đồng giữa ông Dạng và bà L. Cạnh đó, phần nhận định án sơ thẩm ghi các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác nhưng không đề cập đến trong phần quyết định của bản án. Đây là việc tòa sơ thẩm đánh giá chứng cứ chưa toàn diện và không phù hợp với thực tế giao dịch.
Cũng theo tòa, quá trình giải quyết vụ án bà L. thừa nhận giá mua đất của ông Dạng là 4,5 tỉ đồng, sau đó bán lại cho bà N. 4,9 tỉ đồng. Việc bà L. bán lại đất cho bà N. được thực hiện khi ông Dạng đã khởi kiện và tòa đã thụ lý, giải quyết vụ án. Bà L. đã nhận được thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn cố tình bán đất cho bà N.
Như vậy, hành vi của bà L. có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và trốn thuế nhưng cấp sơ thẩm không có văn bản yêu cầu cơ quan điều tra (CQĐT) cùng cấp xem xét khởi tố vụ án hay không.
Ngoài ra, tòa sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ làm rõ việc bà L. giao cho vợ chồng ông Dạng hai GCN đất ở huyện Ea H’leo để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ có giá trị bao nhiêu. Tòa chưa làm rõ quá trình giải quyết vụ án có ai yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không.
Cấp sơ thẩm chưa đối chất, làm rõ việc khi bà N. thế chấp ba GCN để vay vốn ngân hàng có trực tiếp thẩm định tại nhà ông Dạng hay không, nếu có thì ông Dạng có biết và có ý kiến gì hay không.
Từ đó, HĐXX tuyên chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, hủy bản án, giao hồ sơ về cho tòa sơ thẩm xét xử lại. Trong phiên xử sơ thẩm lại mới đây, TAND TP Buôn Ma Thuột đã phải tạm hoãn để làm rõ một số nội dung liên quan.
Vì sao công an chưa khởi tố vụ án? Sau phiên tòa phúc thẩm, phía nguyên đơn đã có đơn gửi tòa án và VKSND TP Buôn Ma Thuột đề nghị văn bản yêu cầu Cơ quan CSĐT cùng cấp khởi tố vụ án liên quan đến hành vi của bà L. Sau đó tòa đã có văn bản hỏi CQĐT theo đề nghị của đương sự và ngày 17-9-2020, cơ quan này có văn bản trả lời tòa. CQĐT cho biết sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ mà tòa gửi sang thì thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Dạng và bà L. làm giảm số tiền thuế thu nhập cá nhân và lệ phí trước bạ phải nộp vào ngân sách là 92,5 triệu đồng. Hành vi này không cấu thành tội trốn thuế theo Điều 200 BLHS vì chưa đủ định lượng để truy tố là 100 triệu đồng. Sau đó, bà L. chuyển nhượng ba thửa đất cho bà N. với số tiền thực tế là 4,9 tỉ đồng nhưng hợp đồng đã được công chứng chỉ ghi 150 triệu đồng, số tiền chênh lệch so với thực tế giá chuyển nhượng là 4,75 tỉ đồng. Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng này làm giảm số tiền thuế thu nhập và lệ phí trước bạ phải nộp vào ngân sách hơn 118 triệu đồng. Hành vi của bà L. và bà N. có dấu hiệu tội trốn thuế. Về dấu hiệu của tội lừa đảo, CQĐT cho rằng bà L. nhận chuyển nhượng ba thửa đất của vợ chồng ông Dạng, bà N. có hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên, được cơ quan có thẩm quyền cấp GCN. Do chưa có tiền để trả cho ông Dạng nên ngày 14-3-2019, bà L. đã đưa GCN hai lô đất ở xã Ea Wy, huyện Ea H’leo của bà L. cho ông Dạng giữ làm tin. Ngày 4-4-2019, bà L. nhận được thông báo của tòa về việc ông Dạng khởi kiện nhưng quá trình giải quyết vụ án không có ai yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngăn chặn giao dịch đối với ba thửa đất. Sau đó, bà L. đã chuyển nhượng ba thửa đất cho bà N. và có nói cho bà N. biết về nguồn gốc các thửa đất và số tiền bà L. còn nợ ông Dạng. Như vậy, hành vi của bà L. không có dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của bà N. nên không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 10-3, trao đổi với Pháp Luật TP.HCM về lý do vì sao chưa khởi tố vụ án liên quan đến hành vi trốn thuế như đã nhận định phía trên, Thiếu tá Lê Minh Thức, Đội trưởng Đội CSĐT về kinh tế và chức vụ, Công an TP Buôn Ma Thuột, cho biết đơn vị mới chỉ nhận công văn của tòa để trao đổi. Tức là phía tòa án mới chỉ gửi công văn trao đổi để CQĐT tham mưu về việc có dấu hiệu phạm tội hay không. Vụ việc vẫn đang được tòa án thụ lý chứ chưa có quyết định chuyển hồ sơ qua công an. “Khi nào tòa chuyển hồ sơ vụ việc và có kiến nghị công an khởi tố vụ án thì đơn vị sẽ xem xét việc khởi tố hay không” - ông Thức nói. |