Sáng 12/3, đại diện Viện KSND TP Hà Nội thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử vụ án xảy ra tại Dự án Nhà máy nhiên liệu sinh học Phú Thọ (Ethanol Phú Thọ) đối đáp với các luận điểm bào chữa của bị cáo và luật sư.
Theo VKS, tại tòa, bị cáo Đinh La Thăng (cựu Chủ tịch PVN) và các luật sư nói, PVB là chủ đầu tư nên chỉ có chủ đầu tư mới có quyền quyết định lựa chọn nhà thầu, xây dựng nhà máy; ông Thăng chỉ có chủ trương; việc chỉ định thầu cuối cùng vẫn phải do PVB quyết định.
Bị cáo Thăng trong phần tự bào chữa cũng khẳng định, bản thân trong các cuộc họp đều là những chỉ đạo đúng, không sai; bị cáo không đồng phạm với chủ đầu tư, vụ án này không có nhóm lợi ích. Việc triển khai dự án là chủ trương chung của PVN nhằm phát huy nội lực của PVN, PVN không trực tiếp làm chủ đầu tư mà giao cho đơn vị thành viên thành lập công ty cổ phần làm chủ đầu tư.
Bị cáo Trần Thị Bình (cựu Phó TGĐ PVN) và các luật sư bào chữa cho ông Thăng, bà Bình có cùng quan điểm như trên.
Đối đáp lại, VKS khẳng định, những quan điểm trên là không có căn cứ. Bởi việc triển khai các dự án nhiên liệu sinh học, trong đó có Dự án Ethanol Phú Thọ ở phía Bắc, là nhiệm vụ được Chính phủ và Bộ Công Thương giao cho PVN.
Bị cáo Thăng đã chủ trương giao cho PVC được nhận thầu dự án Ethanol Phú Thọ để PVC được chỉ định thầu; bị cáo Thăng vừa có sự chỉ đạo, giao nhiệm vụ trực tiếp đối với PVC, vừa chỉ đạo trực tiếp đối với người đại diện vốn tại PVN và tại các đơn vị có vốn góp và PVB.
Về lời bị cáo Thăng cho rằng, bị cáo này chỉ chỉ đạo chung với tư cách Chủ tịch PVN và Trưởng Ban chỉ đạo, không làm thay việc của chủ đầu tư, VKS thấy trong số các cổ đông sáng lập PVB (chủ đầu tư Dự án Ethanol Phú Thọ) có 3 cổ đông (chiếm phần lớn vốn góp) là công ty con của các đơn vị thuộc PVN. Ba cổ đông này nắm giữ quyền chi phối PVB.
Các công ty con, đơn vị thành viên của PVN hoàn toàn bị chi phối, lệ thuộc sự chỉ đạo của lãnh đạo PVN. PVB cũng không phải ngoại lệ. VKS khẳng định, từ bị cáo Đinh La Thăng đến các lãnh đạo PVN, các đơn vị thành viên, công ty con của PVN, đến PVB, PVC đều thuộc một cơ cấu, đều tiếp nhận ý chí chỉ đạo chung của ông Đinh La Thăng.
Không phải "nhóm lợi ích" mà là "nhóm lợi ích tiêu cực"
Theo VKS, xem xét các văn bản có bút phê của bị cáo Thăng, văn bản chỉ đạo của bà Trần Thị Bình có thể thấy, các bị cáo hoàn toàn biết rõ liên danh nhà thầu do PVC đứng đầu không đủ năng lực thực hiện dự án nhưng đã chỉ đạo không xem xét về năng lực nhà thầu, chỉ xem xét về giá gói thầu; nhà thầu chỉ cần đồng ý với giá chủ đầu tư ban hành là được nhận dự án.
Hành vi của bị cáo Đinh La Thăng, Trần Thị Bình vi phạm Luật Xây dựng năm 2003, cấu thành tội "Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng" đúng như cáo trạng đã truy tố; không có cơ sở chấp nhận luận điểm mà các bị cáo đưa ra.
"Trong vụ án thể hiện giữa các bị cáo, từ bị cáo là người đứng đầu tới các bị cáo là nhân viên của các đơn vị cấp dưới, đều có sự thống nhất, câu kết với nhau để cùng thực hiện hành vi tội phạm." - đại diện VKS nêu quan điểm.
Về kiến nghị của bị cáo Đinh La Thăng đề nghị làm rõ vấn đề "nhóm lợi ích" trong vụ án này, VKS cho hay, trong phần luận tội, VKS đã nêu rõ, đây là vấn đề "nhóm lợi ích tiêu cực". Sự câu kết với nhau để thực hiện hành vi sai trái, đó chính là tiêu cực.
"Đây không phải vấn đề "nhóm lợi ích" như bị cáo Thăng bào chữa, chúng tôi đặt vấn đề ở đây là "nhóm lợi ích tiêu cực", vì các bị cáo đã câu kết với nhau, cùng thực hiện một việc làm trái pháp luật, đó là tội phạm!" - đại diện VKS khẳng định.
Trịnh Xuân Thanh thiếu thành khẩn
Đối với bị cáo Trịnh Xuân Thanh, trước đó, các luật sư bào chữa cho rằng, việc phân hóa vai trò của bị cáo Thanh chưa đảm bảo. VKS cho rằng, trong nhóm các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là đồng phạm thì bị cáo Thanh giữ vai trò cao hơn.
Theo VKS, mặc dù PVN chỉ đạo nhưng PVC và PVB cũng có sự độc lập trong thực hiện chỉ đạo của PVN. Bị cáo Thanh đã chỉ đạo cuộc họp để tổ chức thực hiện dự án, VKS đánh giá vai trò bị cáo Thanh cao hơn. Hơn nữa, trong quá trình xét hỏi tại tòa, bị cáo Thanh cũng không nhận tội, thiếu thành khẩn.
Một số luật sư và bị cáo đặt vấn đề về thiệt hại và cách tính thiệt hại trong vụ án, VKS cho rằng, số tiền hơn 1.400 tỷ đồng thực hiện dự án do chủ đầu tư vay ngân hàng. Thỏa thuận giữa chủ đầu tư và nhà thầu là phải thực hiện dự án đi vào hoạt động đúng tiến độ.
Đến nay, dự án dừng thi công, cho thấy chủ đầu tư phải chịu tiền lãi và do dự án không đưa vào kinh doanh đúng thời hạn vẫn phải tính thiệt hại. Bên cạnh đó còn các chi phí khác như: hạng mục công trình, bảo dưỡng, quản lý tài sản, đào tạo nhân lực… Do đó, ngoài thiệt hại về tiền triển khai dự án còn thiệt hại nhiều thứ khác.
Vấn đề thiệt hại được xác định trên cơ sở của pháp luật, đó là những thiệt hại thực tế có thể xác định được và là thiệt hại tối thiểu được chấp nhận. Do vậy, cáo trạng xác định các bị cáo gây thiệt hại hơn 500 tỷ đồng là hoàn toàn có căn cứ.
Với quan điểm cho rằng hành vi chỉ định thầu không gây thiệt hại, VKS thấy, mục đích chỉ định thầu là tìm ra nhà thầu có đủ năng lực kinh nghiệm thực hiện dự án, đạt được hiệu quả đầu tư, tuân theo quy định. Tuy thiên, các bị cáo ở PVN, PVB, PVC đã không tuân thủ các quy định của pháp luật, dẫn đến dự án dừng thi công; nguyên nhân chính dự án dừng thi công là từ phía PVC, thể hiện ở năng lực kinh nghiệm không đạt.
"Từ hành vi chỉ định thầu đã gây ra hậu quả như cáo trạng truy tố." - VKS khẳng định.
Tiến Nguyên