Thuế tối thiểu toàn cầu là thoả thuận của các nước G7 đạt được vào tháng 6/2021 để chống lại các tập đoàn đa quốc gia né thuế, dự kiến áp dụng vào 2024. Mức thuế tối thiểu được áp dụng là 15% đối với các doanh nghiệp đa quốc gia có tổng doanh thu hợp nhất từ 750 triệu euro (khoảng 800 triệu USD) trở lên trong 2 năm của 4 năm liền kề nhất.
Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU sẽ đánh thuế vào năm sau. Tại Việt Nam, chính sách này đang được cân nhắc khi Phó thủ tướng Lê Minh Khái giao Bộ Tài chính tiếp tục đánh giá để khẳng định "Việt Nam nên hay không tham gia áp thuế này".
Tham luận tại hội thảo về thuế tối thiểu toàn cầu sáng 18/4, ông Choi Joo Ho, Tổng giám đốc Tổ hợp Samsung tại Việt Nam, cho biết trong bối cảnh loại thuế này được triển khai, các chính sách miễn giảm thuế của Việt Nam sẽ không còn phát huy tác dụng với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI. Ngược lại, nó sẽ mang đến những ảnh hưởng tiêu cực cho môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Nguyên nhân theo ông là các công ty đang được hưởng ưu đãi phải nộp bổ sung mức thuế suất tối thiểu toàn cầu 15% tại quốc gia có công ty mẹ hiện hữu. Tức lợi nhuận có được tại Việt Nam sẽ bị cơ quan thuế của một quốc gia khác (mà không phải Việt Nam) thu về, thông qua việc thực hiện quyền thu thuế đối với số lợi nhuận này.
Việc nộp bổ sung thuế sẽ tạo gánh nặng tài chính cho tập đoàn doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hoạch định tài chính, chiến lược kinh doanh, trực tiếp làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất tại Việt Nam, theo ông Choi Joo Ho.
"Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ Việt Nam cần đưa ra những quyết đoán trong quá trình ứng phó với thuế tối thiểu toàn cầu này", ông nói.
Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cũng nhìn nhận: "Các biện pháp ưu đãi thuế sẽ không còn nhiều tác dụng trong thu FDI".
Theo thống kê của cơ quan này, hiện có 1.015 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có công ty mẹ thuộc đối tượng áp thuế. Trong đó, hơn 70 doanh nghiệp có khả năng chịu ảnh hưởng của thuế này khi nó được áp dụng vào 2024. Nếu các nước có công ty mẹ đều thực thi thuế tối thiểu toàn cầu, các nước này sẽ thu thêm được phần thuế chênh lệch hơn 12.000 tỷ đồng trong năm 2024.
Ông Đặng Ngọc Minh, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cũng thông tin hiện có khoảng 335 dự án có số vốn đầu tư đăng ký trên 100 triệu USD hoạt động đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tại các khu kinh tế và khu công nghiệp đang được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn 15%. Các doanh nghiệp có thể kể đến như Samsung, Intel, LG, Bosch, Sharp, Panasonic, Foxconn, Pegatron... Tổng vốn đầu tư đăng ký của các loại dự án này chiếm gần 30% tổng vốn FDI tại Việt Nam (đạt khoảng 131,3 tỷ USD). Đây là những dự án có khả năng sẽ chịu ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu.
Việt Nam cần làm gì?
Là doanh nghiệp có thể chịu tác động của thuế tối thiểu toàn cầu, đại diện Samsung đưa ra hai đề xuất nhằm duy trì năng lực đầu tư của các doanh nghiệp FDI và các chính sách ưu đãi. Thứ nhất, Việt Nam cần xây dựng các cơ chế về khoản hỗ trợ nhằm bổ sung cho phần ưu đãi của các doanh nghiệp - tuỳ theo từng loại hình - khi áp dụng thuế suất mới này. Đồng thời, Việt Nam nên áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn (QDMTT) để giành quyền thu thuế bổ sung và có được nguồn tài chính cho các khoản hỗ trợ bằng tiền.
QDMTT có thể hiểu là một cơ chế nội địa trong đó việc tính toán lợi nhuận thặng dư và thuế tối thiểu được áp dụng tương đương với các quy định của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Đây là biện pháp mà các nền kinh tế như Hong Kong, Singapore, Malaysia đang cân nhắc và nhiều khả năng sẽ áp dụng.
Quốc gia thực hiện QDMTT sẽ được ưu tiên để thu thuế bổ sung từ các đối tượng nằm trong khu vực tài phán của mình. Nếu không có cơ chế này, nguồn thu đó sẽ được chuyển đến một nước khác như xác định theo thứ tự quy tắc. Còn với doanh nghiệp, tác dụng của QDMTT là định hướng nơi phải trả khoản thuế bổ sung chứ không thay đổi về số tiền phải nộp.
Đại diện Samsung cũng nhìn nhận, nên có chính sách hỗ trợ bằng tiền mặt thay thế cho cơ chế miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đã bị vô hiệu hoá vì loại hình thuế mới. Khoản hỗ trợ này được thực hiện qua các quy trình thủ tục đăng ký và chi trả sau khi doanh nghiệp đã nộp thuế nên Việt Nam sẽ không gặp khó khăn trong quá trình huy động nguồn lực tài chính và chi trả.
Để tạo được nguồn tài chính cho việc hỗ trợ tiền mặt, cơ chế QDMTT có thể giải quyết được khi Việt Nam giữ được quyền đánh thuế với phần thuế bổ sung. Hiện OECD đã cung cấp các công thức tính toán để các quốc gia có thể dễ áp dụng, tránh đánh thuế hai lần. Trong khi đó, nếu áp dụng phương án nâng thuế thu nhập doanh nghiệp lên 15% có thể tạo sự phức tạp trong tính toán thuế bổ sung và khả năng cao doanh nghiệp bị đánh thuế hai lần.
Nói với VnExpress, bà Trang Phạm, Phó tổng giám đốc, Tư vấn Thuế của EY Việt Nam, cho biết cơ chế hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho doanh nghiệp đã có tại nhiều nước như Ấn Độ, Thái Lan. "Xu hướng chuyển dịch ưu đãi thuế dựa vào lợi nhuận sang các ưu đãi thuế dựa vào chi phí đang được nhiều quốc gia cân nhắc bởi tính ưu việt của nó", bà nói.
Theo đó, bà cho rằng việc hỗ trợ bằng tiền hoặc cấn trừ trực tiếp với nghĩa vụ thuế đạt chuẩn của OECD để khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên là biện pháp ưu đãi đầu tư không làm giảm thuế suất hiệu quả, không bị mất hiệu lực dưới tác động của loại thuế mới.
Với cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn, ngoài việc Việt Nam giành được quyền đánh toàn bộ số thuế bổ sung, thu nhập của công ty con tại Việt Nam sẽ không phải chịu thêm bất cứ khoản thuế bổ sung nào khác. Cơ chế này cũng có tính ổn định cao khi Việt Nam có thể ước tính được nguồn thu ngân sách bổ sung để có cơ sở trong việc xây dựng chính sách, đảm bảo môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn;
"Nó cũng tạo thuận lợi, giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp vì số thuế tính theo cơ chế này được các nước công nhận và trừ toàn bộ vào số thuế bổ sung ở nước ngoài", bà Trang nói.
Tuy nhiên, bà cho biết việc áp dụng cơ chế này đòi hỏi Việt Nam phải nội luật hóa chính sách nhằm đảm bảo vừa đạt chuẩn, vừa điều chỉnh những yếu tố kỹ thuật quá phức tạp và không phù hợp với chính sách thuế nội địa của Việt Nam. Ngoài ra, việc phổ biến và đào tạo nhân lực phục vụ công tác triển khai thực hiện sau này cũng cần được nhanh chóng thực hiện.
Theo ông Đặng Ngọc Minh, nếu Việt Nam không áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, số thu ngân sách nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp cũng không bị ảnh hưởng. Còn nếu áp dụng QDMTT, ngân sách sẽ tăng do có quyền đánh thuế bổ sung cũng như thu được thêm phần thuế từ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài thuộc đối tượng của thuế tối thiểu toàn cầu.
Ông Minh cho rằng Việt Nam cần chủ động ban hành các chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của thuế tối thiểu toàn cầu. Ngoài ra, cần nghiên cứu bổ sung quy định về thuế này và quy định lợi nhuận chịu thuế dưới mức tối thiểu để áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài và các doanh nghiệp khác thuộc đối tượng áp dụng của thuế tối thiểu toàn cầu để thu phần chênh lệch (nếu có). Việt Nam cũng cần có những giải pháp hỗ trợ tài chính trực tiếp, gián tiếp nhưng phải đảm bảo không vi phạm quy tắc về thuế tối thiểu toàn cầu, phù hợp với cam kết, thông lệ quốc tế, giảm thiểu tác động xấu tới môi trường đầu tư.
Ngoài ra, để thu hút đầu tư, đại diện Tổng cục Thuế cho rằng cần có các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong đầu tư cơ sở hạ tầng cơ bản cho sản xuất, bảo vệ môi trường, hỗ trợ nhà ở cho công nhân, hỗ trợ bảo hiểm xã hội, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường. Để thực hiện được chương trình hỗ trợ nhà nước cũng cần bố trí các nguồn lực tài chính, đất đai, đào tạo nguồn nhân lực để duy trì sức hấp dẫn và ổn định môi trường đầu tư.
Phương Ánh