Xoay quanh câu chuyện: "Nhiều người trẻ đột ngột vỡ mạch não" đăng trên Tuổi Trẻ Online, PGS.TS NGUYỄN HUY THẮNG - chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM kiêm trưởng khoa bệnh lý mạch máu não (Bệnh viện Nhân dân 115) - có những khuyến cáo cặn kẽ thêm, về những việc cần làm và không cần làm với túi động mạch chưa vỡ.
Ông nói: "Cách đây không lâu có một bệnh nhân trẻ đến khoa bệnh lý mạch máu não xin được khám, bởi tình cờ phát hiện có một túi phình nhỏ khoảng 5mm tại động mạch cảnh trong.
Vẻ mặt cậu ấy khá lo lắng, có lẽ vì đã được giải thích cần thiết can thiệp ngay nhằm loại bỏ túi phình. Vậy chúng ta nên làm gì nếu một ngày nào đó đột nhiên biết mình đang có một túi phình nhỏ ở động mạch não?".
Bệnh lý khá thường gặp, nhưng...
* Vậy túi phình động mạch não có phải là bệnh lý khá thường gặp không, thưa ông?
- Thật ra túi phình động mạch não khá thường gặp, ước tính khoảng 2-3% trong dân số và có thể cao hơn trên dân số lớn tuổi. Như vậy, ở Việt Nam ước tính có khoảng 2-3 triệu quả "bom nổ chậm" trên tổng số 100 triệu người.
Mặc dù vậy, tỉ lệ xuất huyết màng não hiện nay chỉ vào khoảng 6-10 ca/100.000 dân. Điều đó có nghĩa hơn 3.000 trường hợp có túi phình động mạch não mới có một trường hợp gây vỡ.
* Ông nói phình động mạch não là "quả bom nổ chậm" nhưng lại cho rằng có ca "không cần phải làm gì cả", điều này có mâu thuẫn?
- Chắc chắn sẽ có người hét vào mặt bác sĩ khi được nghe: "Ông/bà không cần phải làm gì thêm, chỉ cần chờ đợi ngày… vỡ". Nhưng điều này lại rất hợp lý trong nhiều trường hợp.
Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ vỡ túi phình như tuổi, tăng huyết áp, hút thuốc lá, yếu tố gia đình đã có người bị vỡ túi phình… Tuy vậy, kích thước túi phình được xem là yếu tố quan trọng nhất và có tính quyết định trong việc xử trí.
Cho đến nay, "The International Study of Unruptured Intracranial Aneurysms (ISUIA) study" (tạm dịch là nghiên cứu quốc tế về chứng phình động mạch nội sọ chưa vỡ) được xem là nghiên cứu lớn nhất về túi phình động mạch não chưa vỡ.
Nghiên cứu của ISUIA bao gồm 1.692 bệnh nhân có túi phình với kích thước từ 2mm trở lên. Trong số đó có 1.077 bệnh nhân mang túi phình chưa vỡ.
Dựa vào bảng tóm tắt của nghiên cứu này, chúng ta có thể thấy nguy cơ vỡ của túi phình có kích thước nhỏ hơn 7mm là cực kỳ thấp.
Có thể nói rằng không có % nguy cơ vỡ nào trong 5 năm với túi phình nằm ở các vị trí tuần hoàn trước.
Trong khi đó, nguy cơ vỡ của túi phình động mạch thông sau cao hơn, cũng chỉ 1,5% trong 5 năm (tương đương 0,3%/ năm). Tuy vậy, nguy cơ vỡ sẽ tăng lên nếu kích thước túi phình trong khoảng 7-12mm và đặc biệt khi lớn hơn 12mm.
Chỉ nên xử lý xâm lấn túi phình lớn hơn 12mm
* Vậy, theo ông, với túi phình động mạch não chưa vỡ, hiện nay có các giải pháp gì đáng lưu ý?
- Có 3 giải pháp cơ bản:
- Phẫu thuật kẹp túi phình: Có 2 nghiên cứu phân tích gộp, đánh giá kết quả phẫu thuật kẹp túi phình chưa vỡ. Kết quả cho thấy tỉ lệ tàn phế là 4,1% và 10,9%; tỉ lệ tử vong lần lượt là 1% và 2,9%. Nguy cơ tử vong có thể hơn 20% với túi phình tuần hoàn sau hoặc túi phình kích thước lớn.
- Can thiệp bít túi phình: Dựa trên các phân tích gộp, tỉ lệ kết quả không tốt ở nhóm điều trị can thiệp 3-4%; tỉ lệ tử vong 1-2%. Trong nghiên cứu ISUIA, tỉ lệ tử vong ở nhóm can thiệp là 3,1%. Nguy cơ tử vong cũng sẽ cao hơn với túi phình tuần hoàn sau hoặc túi phình kích thước lớn.
- Điều trị bảo tồn bao gồm việc kiểm soát huyết áp, tránh thuốc lá, bia rượu. Điều quan trọng, cần theo dõi túi phình bằng các kỹ thuật hình ảnh mạch máu không xâm lấn (MRA hoặc CTA) sau 6 tháng hoặc 1 năm để đánh giá việc gia tăng kích thước.
Cần lưu ý chỉ nên chọn 1 kỹ thuật hình ảnh học để theo dõi (nếu đã chon MRA lần đầu, nên lập lại MRA sau đó) nhằm tránh sai số giữa 2 kỹ thuật. Đây là lựa chọn hợp lý cho túi phình chưa vỡ có kích thước nhỏ hơn 7mm.
* Vậy khi nào nên xử lý xâm lấn túi phình chưa vỡ, thưa ông?
- Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, bởi việc chỉ định can thiệp cũng có thể gây biến chứng, khiến bệnh nhân có các biến cố tàn phế hoặc tử vong.
Một điều chắc chắn, các túi phình có kích thước lớn hơn 12mm nên được xử trí sớm, đặc biệt khi bệnh nhân trẻ và có tiền sử gia đình. Còn với các túi phình kích thước từ 7-12mm nên thận trọng vì hiện nay chưa có chứng cứ cho thấy lợi ích của việc can thiệp so với điều trị bảo tồn trên đối tượng này.
Chỉ định can thiệp sớm sẽ được cân nhắc đến các yếu tố nguy cơ ở từng trường hợp cụ thể như tuổi, tiền sử gia đình, vị trí ở động mạch thông sau, kích thước gia tăng trong quá trình theo dõi…
Với các túi phình chưa vỡ có kích thước nhỏ hơn 5mm, nên được điều trị bảo tồn bằng việc kiểm soát huyết áp, tránh thuốc lá, bia rượu. Đồng thời, theo dõi sự thay đổi kích thước 6 tháng/lần để có chỉ định can thiệp kịp thời.
Ngược lại, với các túi phình đã vỡ, cho dù ở kích thước nào, việc can thiệp sớm là rất cần thiết vì có thể làm giảm nguy cơ tử vong khi túi phình bị tái vỡ.
Ai cần tầm soát túi phình động mạch não chưa vỡ?
Với xuất độ 2-3% trong dân số, theo bác sĩ Thắng, việc đột nhiên phát hiện túi phình là điều hoàn toàn có thể và xử trí đa số là điều trị bảo tồn. Do vậy, chắc chắn sẽ không có chuyện tầm soát ở mọi đối tượng.
Ông khuyến cáo chỉ nên tầm soát ở các đối tượng có nguy cơ cao như gia đình có người thân vỡ túi phình và bệnh nhân thận đa nang.
Hậu quả quan trọng nhất đối với phình động mạch trong não là gây nên tình trạng thiếu máu não từng đợt và gây đột qụy.