Cuối những năm 1990, tội phạm bạo lực gia tăng ở thành phố New Orleans, bang Louisiana, và các vùng ngoại ô.
Tháng 10/1998, tại Giáo xứ Jefferson, thi thể một người đàn ông Mỹ gốc Phi được tìm thấy bên dưới cầu vượt. Nạn nhân là Oliver LeBanks, sống gần khu French Quarter ở New Orleans, chết do bị siết cổ. Tóc của một người da trắng được tìm thấy trên cơ thể Oliver và được thu thập làm bằng chứng.
Oliver là bố của 5 đứa con và đang thất nghiệp. Anh ta thi thoảng lang thang ở góc phố, được cho là để gặp gỡ và quan hệ tình dục với những người đàn ông qua đường.
Suốt 10 tháng sau đó, cảnh sát không tìm ra manh mối hữu ích nào. Đến tháng 8/1999, một vụ giết người khác được phát hiện tại cùng địa điểm với thi thể Oliver.
Nạn nhân là Mitchell Johnson, 34 tuổi, cũng có các dấu vết giống Oliver, nguyên nhân tử vong cũng tương tự. Không có vết thương do tự vệ nhưng có dấu hiệu bị tấn công tình dục. Mitchell có hoàn cảnh sống tương tự Oliver.
Một nhân chứng cho biết Mitchell đã ở cùng một người đàn ông da trắng trước khi bị sát hại. Từ mô tả của nhân chứng, cảnh sát công bố bản phác thảo tổng hợp về nghi phạm trên một tờ báo địa phương và các cơ sở dành cho người đồng tính ở French Quarter. Tuy nhiên, kết quả cuộc điều tra vẫn chưa có tiến triển.
Sau đó, thi thể của một người đàn ông da màu khác được tìm thấy ở thành phố Kenner, bang Louisiana. Cảnh sát so sánh đặc điểm trong các vụ án và thấy nhiều điểm chung. Họ nhận ra đang đối mặt với một kẻ giết người hàng loạt.
Đến cuối 1999, số lượng nạn nhân đã tăng lên 9. Theo nhà tâm lý học thần kinh pháp y John Fabian, cơn thịnh nộ cũng như sự lệch lạc tình dục có thể dẫn đến những vụ giết người bằng hình thức giống hệt nhau.
Nhưng đến năm 2000, các vụ án mạng đột ngột dừng lại. Các điều tra viên đặt câu hỏi liệu kẻ sát nhân đã chết hay đang bị giam giữ.
Vào tháng 10/2002 tại thành phố Houma, cách Giáo xứ Jefferson khoảng 24 km, một loạt án mạng tương tự lại bắt đầu. Đến tháng 2/2005, thêm 6 nạn nhân được tìm thấy, cả người Mỹ gốc Phi và người da trắng. Bảy tháng sau, con số lên tới 21.
Văn phòng Tổng chưởng lý Louisiana tổ chức một lực lượng đặc nhiệm, tổng hợp các nguồn lực để tập trung phá án. Nhưng các manh mối đều đi vào ngõ cụt.
Giữa năm 2006, vụ án có bước ngoặt khi Ricky Wallace, ở Giáo xứ Terrebonne, kể cho nhà chức trách về việc đi nhờ xe của một người đàn ông da trắng có thân hình mập mạp.
Theo Ricky, tài xế để ảnh một phụ nữ hấp dẫn trên bảng điều khiển ôtô. Ricky đồng ý đề nghị đi cùng anh ta đến một căn nhà di động để hút thuốc phiện và quan hệ tình dục với cô gái trong ảnh. Khi bước vào nhà, Ricky không nhìn thấy người phụ nữ nào. Tài xế cố gắng thuyết phục Ricky rằng bạn gái anh ta thích chơi trò trói buộc, đề nghị trói Ricky lại. Ricky từ chối, yêu cầu được đưa trở lại đường và nhảy ra khỏi xe ngay khi có thể.
Nhiều ngày sau khi các điều tra viên thẩm vấn Ricky, thi thể của một nạn nhân khác với những dấu vết tương tự được tìm thấy.
Cảnh sát tra ra căn nhà di động theo mô tả của Ricky và xác định tài xế là Ronald Joseph Dominique, 41 tuổi. Ronald làm việc cho một công ty cung ứng. Vài năm trước, anh ta bị bắt vì lạm dụng tình dục một người đàn ông.
Sau hai tháng điều tra Ronald, cảnh sát tạm giữ anh ta để thẩm vấn. Anh ta phủ nhận có bất kỳ hành vi sai trái nào với Ricky và nói rằng vụ bắt giữ vài năm trước không đúng sự thật, nạn nhân có ý đồ cưỡng hiếp anh ta.
Ronald đồng ý cung cấp mẫu ADN, nhưng quá trình đợi kết quả mất nhiều thời gian.
Đến tháng 10/2006, số lượng thi thể là 23. Cùng tháng, ADN được tìm thấy trên cơ thể của Manuel Reed trùng khớp với Ronald. Tóc trên cơ thể của Oliver cũng trùng khớp.
Ronald bị bắt và bị buộc tội với hai vụ giết người. Sau 20 phút thẩm vấn, hắn bắt đầu thú nhận.
Ronald sinh ra tại một thị trấn nhỏ ở Houma, Louisiana. Hắn sống cùng chị gái trong khu nhà di động trước khi chuyển đến một nơi trú ẩn dành cho người vô gia cư.
Ronald thấp, thừa cân và mắc bệnh tim, được nhận xét có tính cách hiền hòa, trầm lặng. Tuy vậy, hắn từng bị buộc tội ít nhất 7 lần và ngồi tù hai lần trong nhiều năm qua, chủ yếu vì các tội nhẹ như vi phạm giao thông, ẩu đả và gây rối.
Ngày 25/8/1996, Ronald bị bắt với cáo buộc cưỡng hiếp, nhưng vụ án không được đưa ra xét xử vì không tìm thấy nạn nhân. Hắn nói với các điều tra viên rằng thời gian ngắn bị giam giữ khiến hắn quyết tâm không quay lại nhà tù.
Ronald nhắm mục tiêu vào nam giới độ tuổi từ 16 đến 45, đa phần là người vô gia cư. Hắn gặp họ trên phố, bắt chuyện, đề nghị chở họ đi đâu đó hoặc gợi chuyện về tình dục, dụ họ đi cùng. Theo các điều tra viên, khiếu ăn nói và khả năng dụ dỗ người khác của Ronald là công cụ giúp hắn thu hút nạn nhân.
Ronald khai đã dùng dây an toàn và dây điện để gây án. Hắn cho rằng hành vi của mình là chính đáng vì các nạn nhân đã cưỡng hiếp hắn.
Nhà tâm lý học thần kinh John Fabian cho rằng những kẻ phạm tội tình dục thường phủ nhận hành vi phạm tội và có những biến dạng về nhận thức, tự "đổi vai" và tin rằng mình là người bị lợi dụng.
Ronald cuối cùng thú nhận 23 vụ giết người và chỉ nơi vứt xác.
Ngày 23/9/2008, Ronald bị kết tội với 8 tội danh giết người cấp độ một, nhận 8 bản án chung thân do được miễn án tử hình theo thỏa thuận nhận tội.
Tuệ Anh (Theo Oxygen, Seattletimes)
Xem thêm: lmth.5348544-iah-ov-iaogn-ev-oc-uht-tas/ten.sserpxenv