Tìm cách cứu vãn tình thế cho cuộc bầu cử tiếp theo
Việc Tổng thống Joe Biden gặp Thái tử Mohammed bin Salman ở Ả Rập Xê-út sẽ là sự tiếp bước những đời tổng thống Mỹ trước đây. Điển hình như việc ông Jimmy Carter đã bay đến Tehran vào năm 1977 để nâng ly chúc mừng với nhà vua Iran vào đêm giao thừa. Bỏ qua những bất đồng, ông Carter vẫn gặp mặt vị vua Iran bởi một lý do mà người dân Mỹ hết sức quan tâm: xăng rẻ hơn và nguồn cung dầu ổn định.
Ông Biden có rất ít công cụ để có thể giảm chi phí, đặc biệt là kể từ khi chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga bắt đầu. Vào thời của ông Carter, nguồn cung cấp dầu mỏ mà các nước phương Tây cần đã bị đe dọa bởi các cuộc cách mạng ở Trung Đông.
Trong chiến dịch tranh cử năm 2020, ông Biden hứa sẽ trừng phạt các nhà lãnh đạo cấp cao và sẽ không ngó lơ hành động của thái tử Ả Rập Xê-út khi ông được cho là đã ám sát nhà báo Jamal Khashoggi. Tuy nhiên, các quan chức tuần trước cho biết ông dự định sẽ đến thăm vương quốc vào mùa hè này. Một lần nữa, đó là dấu hiệu mới nhất cho thấy dầu mỏ đã lấy lại vị trí trung tâm trong địa chính trị.
Chỉ vài năm trước, nhiều nhà lập pháp ở Washington và các nhà điều hành dầu khí ở Texas đang tự "vỗ ngực" cho sự bùng nổ năng lượng đã biến Mỹ thành nước xuất khẩu ròng dầu và các sản phẩm dầu mỏ, giúp nước này độc lập hơn về năng lượng. Với việc giá cả tăng cao, giờ chiến tích đó có vẻ viển vông.
Mỹ là nhà sản xuất dầu mỏ và khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới, nhưng nước này chỉ chiếm khoảng 12% nguồn cung cấp xăng dầu toàn cầu. Giá dầu, chi phí chính của xăng, vẫn có thể tăng hoặc giảm tùy thuộc vào các sự kiện diễn ra cách họ nửa vòng trái đất. Và không một tổng thống nào, dù quyền lực hay năng lực mạnh đến đâu, có thể kiểm soát nó.
Đó chỉ là lời an ủi nhạt nhẽo đối với những người Mỹ - những người đang thấy rằng chỉ cần dừng chân ở một trạm xăng thôi có thể sẽ tiêu tốn cả trăm USD của họ. Đây là mức giá cao hơn nhiều so với chỉ một năm trước đó. Khi giá nhiên liệu tăng, người tiêu dùng muốn chính phủ đưa ra những hành động thiết thực và có thể sẽ quay lưng lại với các tổng thống của mình nếu điều đó không được đáp ứng.
Trong bối cảnh cuộc bầu cử tiếp theo sắp diễn ra, đặc biệt là khi vị trí hoặc quyền lực của đảng mình đang bị đe doạ, các tổng thống không thể không cố gắng thuyết phục các nhà sản xuất dầu trong và ngoài nước khoan và bơm thật nhanh và nhiều dầu.
Bill Richardson, một bộ trưởng năng lượng trong chính quyền Clinton, nói: "Đã là một tổng thống thì phải thật cố gắng. Nhưng không may họ chỉ có những lựa chọn tồi tệ. Và có vẻ như lựa chọn nào cũng sẽ tệ hơn việc yêu cầu Ả Rập Xê-út tăng sản lượng."
Quyền lực đến mấy cũng không thể kiểm soát giá dầu
Hai quốc gia sản xuất dầu khác có thể tăng sản lượng là Iran và Venezuela, vốn đều đã bị Mỹ và đồng minh phương Tây trừng phạt. Việc thực hiện bất kỳ thỏa thuận nào với các nhà lãnh đạo của họ mà không có nhượng bộ lớn về các vấn đề như làm giàu uranium và cải cách dân chủ sẽ là mối nguy hiểm về mặt chính trị đối với ông Biden.
Các chuyên gia năng lượng cho biết ngay cả Ả Rập Xê-út, quốc gia được coi là có năng lực sản xuất dự phòng nhất sẵn sàng tăng sản lượng, cũng không thể tự mình hạ giá một cách nhanh chóng. Đó là do sản lượng của Nga đang giảm và có thể giảm mạnh hơn nữa khi các nước châu Âu giảm mua hàng từ nước này.
Chase Untermeyer, đại sứ Mỹ tại Qatar trong chính quyền cựu Tổng thống George W. Bush, cho biết: "Các tổng thống có thể là nhân vật quyền lực nhất trong chính phủ Mỹ nhưng họ không thể kiểm soát giá dầu. Ngay cả khi giá giảm vì những lý do ngoài tầm kiểm soát của ông ấy, Tổng thống Biden có lẽ cũng sẽ không nhận được nhiều tín nhiệm cho điều đó."
Một số nhà lập pháp và giám đốc điều hành dầu mỏ của Đảng Cộng hòa đã lập luận rằng ông Biden có thể làm nhiều hơn nữa để tăng sản lượng dầu khí trong nước bằng cách mở thêm các vùng đất và vùng biển của liên bang để khoan dầu ở những nơi như Alaska và Vịnh Mexico. Ông cũng có thể nới lỏng các quy định về xây dựng đường ống để các nhà sản xuất Canada có thể gửi nhiều dầu hơn về phía nam.
Đây là những sáng kiến mà các nhà bảo vệ môi trường và nhiều đảng viên Đảng Dân chủ phản đối vì chúng sẽ cản trở nỗ lực chống biến đổi khí hậu. Và cho dù có thể thực hiện được, chúng cũng sẽ có ít tác động tức thì vì cần đến vài tháng để các giếng dầu mới bắt đầu được sản xuất và các đường ống dẫn có thể mất nhiều năm để xây dựng.
Jason Bordoff, giám đốc Trung tâm Năng lượng Toàn cầu của Đại học Columbia và từng là cố vấn cho Cựu Tổng thống Barack Obama cho biết: "Nếu chính quyền áp dụng mọi khía cạnh trong danh sách mong muốn của ngành, thì điều đó sẽ chỉ có tác động nhỏ đến giá cả hiện nay bởi vì nó chủ yếu là hướng về sản xuất trong tương lai. Nó sẽ còn đi kèm với những mặt trái đáng kể về mặt chính trị, xã hội và môi trường."
Ông Biden và các trợ lý của ông đã yêu cầu các giám đốc điều hành dầu mỏ của Mỹ bơm thêm dầu nhưng không thành công. Hầu hết các công ty dầu mỏ đều miễn cưỡng gia tăng sản lượng vì họ lo sợ rằng việc khoan nhiều hơn sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa và đẩy giá sụt giảm. Họ e ngại về thời điểm giá dầu giảm xuống dưới 0 khi đại dịch bắt đầu. Các công ty lớn như Exxon Mobil, Chevron, BP và Shell phần lớn vẫn giữ mức ngân sách mà họ đặt ra vào năm ngoái trước khi xung đột Nga-Ukraine xảy ra.
Lối thoát nào cho giá dầu của Mỹ?
Các nhà kinh doanh năng lượng tin rằng nguồn cung sẽ vẫn hạn chế khiến giá dầu của Mỹ và loại dầu được sử dụng làm giá tham chiếu trên toàn cầu tăng cao sau khi có tin tức cho biết ông Biden đang có kế hoạch hướng đến Ả Rập Xê-út. Giá dầu tăng lên khoảng 120 USD/thùng và giá trung bình ở Mỹ cho một gallon xăng thông thường là 4,85 USD, theo AAA.
Một nỗ lực khác của chính quyền Biden dường như không thành công. Đó là quyết định giải phóng một triệu thùng dầu mỗi ngày từ Cục Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược. Các nhà phân tích cho biết thật khó để nhận thức được liệu có bất kỳ tác động nào từ những hành động này hay không.
Đội ngũ của ông Biden cũng đã đàm phán với Venezuela và Iran, nhưng tiến độ đang bị đình trệ.
Venezuela, từng là nước xuất khẩu lớn sang Mỹ, có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới. Nhưng ngành công nghiệp dầu mỏ của họ đã bị tê liệt đến mức có thể mất nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm để quốc gia này có thể tăng xuất khẩu một cách đáng kể.
Với Iran, ông Biden đang tìm cách hồi sinh hiệp định hạt nhân năm 2015 mà Tổng thống Donald Trump đã rút khỏi. Một thỏa thuận có thể cho phép Iran xuất khẩu hơn 500.000 thùng dầu mỗi ngày, giảm bớt căng thẳng nguồn cung toàn cầu và bù đắp cho một số thùng mà Nga không bán. Iran cũng có khoảng 100 triệu thùng dự trữ, có khả năng sẽ được giải phóng nhanh chóng.
Tuy nhiên, các cuộc đàm phán hạt nhân dường như đang sa lầy vào những bất đồng và dự kiến sẽ không sớm có kết quả.
Tất nhiên, bất kỳ thỏa thuận nào với Venezuela hoặc Iran đều có thể trở thành trách nhiệm chính trị đối với ông Biden. Bởi vì hầu hết các đảng viên Cộng hòa và thậm chí một số đảng viên Dân chủ phản đối các thỏa hiệp với các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên.
Các chuyên gia về chính sách đối ngoại cho rằng trong khi các cuộc khủng hoảng năng lượng khi xung đột xảy ra là điều không thể tránh khỏi nhưng dường như chúng luôn gây bất ngờ cho các chính quyền. Nguyên nhân là bởi họ thường vốn không chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng tiếp theo. Ông Bordoff, cố vấn của Obama, gợi ý rằng đất nước này nên đầu tư nhiều hơn vào ô tô điện và xe tải, đồng thời khuyến khích việc tiết kiệm và hiệu quả hơn để giảm nhu cầu năng lượng.
Ông Bordoff cho biết: "Lịch sử của các cuộc khủng hoảng dầu mỏ cho thấy khi có khủng hoảng, các chính trị gia chạy quanh co như gà bị cắt tiết, cố gắng tìm ra những gì họ có thể làm để cứu trợ ngay lập tức cho người tiêu dùng." Ông nói thêm rằng các nhà lãnh đạo Mỹ cần chuẩn bị tốt hơn cho lần tới khi xảy ra một cuộc khủng hoảng dầu mỏ không thể tránh khỏi.
Tham khảo NYT
http://tintuc.vdong.vn/06/1381190.htm