Ra đời năm 1995 với sứ mệnh trở thành một tổ chức đa phương thúc đẩy thương mại toàn cầu, nhưng sau gần 3 thập niên hoạt động, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đang đối mặt với những thách thức rất lớn, nhất là tình trạng tái phân mảnh của cấu trúc thương mại thế giới hiện nay.
Gần 30 năm qua, WTO đã góp phần nới lỏng nhiều rào cản thương mại, giúp lộ trình toàn cầu hóa và thương mại tự do thông thoáng hơn. Kể từ khi có WTO tới nay, tổng khối lượng thương mại toàn cầu đã tăng hơn gấp đôi, các loại thuế quan trung bình đã giảm khoảng 9%, hàng tỉ người thoát nghèo nhờ đó.
Song các biến động lớn của thế giới thời gian qua, từ dịch bệnh cho tới chiến tranh và cạnh tranh nước lớn, đã khiến WTO trở nên ngày càng đơn độc và lạc lõng trong công cuộc bảo vệ tính mở của thương mại toàn cầu.
Hội nghị bộ trưởng lần thứ 12 (MC12) tại Geneva, Thụy Sĩ diễn ra trong các ngày từ 12 tới 15-6 được coi như bài kiểm tra quan trọng với WTO về những chính sách lớn liên quan tới tương lai của toàn cầu hóa.
Những cuộc khủng hoảng xảy ra đồng thời hoặc kế tiếp nhau như dịch COVID-19, cuộc chiến Ukraine, khủng hoảng lương thực, lạm phát và giá năng lượng tăng phi mã đều đang xới lên xu hướng "xét lại" toàn cầu hóa ở khắp nơi.
Nhiều nước đang ngày càng "thu vào trong" về các mục tiêu kinh tế, chú trọng bảo vệ và thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp trong nước - những xu thế đi ngược lại mục tiêu kiến tạo hệ thống thương mại mở toàn cầu, cũng là lý do thuở ban đầu để WTO ra đời.
Xu hướng phân mảnh trong cấu trúc thương mại toàn cầu không mới, nhưng những biến cố vừa qua khiến chủ nghĩa đa phương đang dịch chuyển theo hướng hình thành các khối ảnh hưởng khu vực.
Có thể kể ra một vài khối như nhóm 11 nước trong Hiệp định Đối tác và toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTTPP), nhóm 15 nước trong Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) hay 54 nước trong Hiệp định Thương mại tự do lục địa châu Phi (ACFTA).
Cùng với đó, Mỹ và một số nước khác đang theo đuổi chương trình nghị sự nhằm chuyển các chuỗi sản xuất và thương mại ra khỏi Trung Quốc hoặc Nga về nước hoặc sang các nước có quan điểm tương đồng và hữu hảo với họ về an ninh và kinh tế.
Nhưng sự thật là kể từ sau Chiến tranh lạnh, thế giới có lẽ chưa bao giờ chia rẽ như lúc này. Vào giai đoạn đầu của đại dịch virus corona chẳng hạn, các nước giàu đã nhanh chóng sản xuất và thu gom vắc xin, trong khi nhiều nước nghèo và thu nhập thấp bị "bỏ rơi". Rồi trong cuộc chiến Ukraine, trong khi các nước phương Tây quyết liệt áp lệnh trừng phạt Nga thì rất nhiều nước vẫn đang giữ một lập trường trung lập và vẫn làm ăn buôn bán bình thường với Matxcơva.
Cuộc so kè và cạnh tranh giữa hai nền kinh tế dẫn đầu thế giới Mỹ và Trung Quốc cho tới nay cũng đã dẫn đến những mô hình hợp tác thương mại phân mảng khác nhau. Thời gian qua, chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm ủng hộ mô hình hợp tác kinh tế mới chỉ "làm ăn" với các nước "hữu hảo", thay vì với tất cả các nước trong một hệ thống mở hoàn toàn như trước giờ.
Bà Okonjo-Iweala tuần qua cảnh báo việc phân chia các nền kinh tế trên thế giới và tách nhỏ chuỗi cung ứng thành các khối chính trị sẽ dẫn tới nhiều hậu quả tiêu cực. Bà dẫn một ước tính sơ bộ của các nhà kinh tế học tại WTO cho biết nếu viễn cảnh thế giới bị chia thành hai cực về kinh tế thành hiện thực, về lâu dài GDP thực tế trên toàn cầu sẽ giảm 5%.
Sau nhiều đêm mất ngủ và rất nhiều tranh cãi, các thành viên của WTO đã đạt được một loạt thỏa thuận trong ngày 17-6. Đây cũng là những thỏa thuận đa phương ý nghĩa đầu tiên sau nhiều năm tranh cãi tưởng chừng bất tận của tổ chức này.
Trong bài phát biểu kết thúc hội nghị bộ trưởng đầu tiên của WTO trong bốn năm rưỡi, bà tổng giám đốc đã ca ngợi các thỏa thuận đạt được là "chưa từng có".
"Những thỏa thuận quý vị đạt được sẽ tạo nên khác biệt cho đời sống của người dân toàn cầu - bà Okonjo-Iweala nói - Các kết quả này cho thấy WTO trên thực tế có thể ứng phó với những tình huống khẩn cấp của thời đại chúng ta".
Giới quan sát kỳ vọng những thỏa thuận đạt được có thể giúp mở ra một kỷ nguyên mới cho tổ chức thương mại đa phương sau 27 năm tồn tại giữa rất nhiều chỉ trích về tính không hiệu quả và sự cồng kềnh, họp nhiều mà chẳng ra vấn đề.
Trong số các thành tựu chính đạt được tại MC12 có thỏa thuận cấm tài trợ của chính phủ cho hoạt động đánh bắt thủy sản trái phép hoặc đánh bắt ở những vùng biển bị khai thác quá mức trên thế giới.
Cần phải nhấn mạnh đây là vấn đề đã được WTO bàn thảo suốt 20 năm qua. Mặc dù văn bản cuối cùng chưa đạt tới những tham vọng ban đầu, song vẫn là một trong những thỏa thuận quan trọng đầu tiên của WTO từ năm 2013. Euronews nhận định đây cũng là thỏa thuận vào loại "có tầm ảnh hưởng lớn nhất" mà WTO từng đạt được trong lịch sử tổ chức.
WTO cũng đã nhất trí được về kế hoạch miễn trừ bản quyền với các vắc xin COVID-19. Ngoài ra, các bộ trưởng tại MC12 đã thống nhất gỡ bỏ các rào cản thương mại đang ngăn cản Chương trình Lương thực thế giới (WFP) tiếp cận nông sản ở một số nước - động thái quan trọng hy vọng góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu đang leo thang.
Hẳn nhiên những tín hiệu tích cực này là đáng khích lệ, nhưng để vượt qua những thách thức lớn trước mắt, WTO sẽ phải tiến hành cải tổ lớn. Nội dung của cuộc cải tổ này cũng là vấn đề được tranh luận sôi nổi giữa các thành viên tại MC12.
Hầu hết các nước đều ủng hộ cải tổ WTO với 3 thành tố: trước hết là thừa nhận nhu cầu cải tổ lề lối làm việc của tổ chức; nhu cầu về sự minh bạch và dung nạp của quá trình cải tổ; và nhu cầu về việc WTO phải xét tới lợi ích của mọi thành viên. Tuy nhiên, Ấn Độ và một số thành viên khác muốn có một quá trình cải tổ đa phương nghiêm ngặt hơn.
Những bất đồng ngay cả từ câu chữ trong phương hướng cải tổ phần nào phản ánh sự phức tạp trong việc đạt được một đồng thuận cần thiết của tất cả 164 thành viên với bất cứ cam kết đa phương nào đó. "Đúng là rất khó để đồng thuận mọi thứ từ nhiều bên và điều này đã gây khó khăn cho WTO", bà Okonjo-Iweala thừa nhận tại Diễn đàn Kinh tế thế giới năm nay ở Davos, Thụy Sĩ.
Đó cũng là lý do cho thấy vì sao thời gian qua Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đang ngày càng quan tâm hơn tới các hiệp định thương mại nhiều bên (plurilateral pact) với các nhóm thành viên nhỏ nằm trong WTO, thường là theo phân bố địa lý, hơn là với toàn bộ tổ chức này, ở quy mô toàn cầu.
Có thể kết luận bằng bình luận của bà Kelly Ann Shaw - cựu quan chức thương mại thời tổng thống Mỹ Donald Trump, hiện làm việc tại Hãng luật Hogan Lovells - khi cho rằng nếu chỉ với câu chữ nói về sự cải tổ của WTO mà các thành viên còn tranh cãi như vậy thì "thật khó tưởng tượng họ sẽ thực sự làm được gì để cải tổ nó". ■
Nếu toàn cầu hóa có một biểu trưng, thì chiếc tàu container đi biển sẽ là ứng cử viên nặng ký. Những chiếc "công" 40 feet (12 mét), thường cao khoảng 2,4 mét chất chồng lên nhau trên một con tàu khổng lồ có thể băng qua các đại dương đại diện cho thời đại mà những khối lượng lớn hàng hóa có thể đi khắp thế giới với chi phí khá phải chăng.
Người tiêu dùng ngày nay có thể lựa chọn hàng hóa với sự đa dạng cả về chủng loại lẫn xuất xứ chưa từng thấy. Một chai vang California hay Úc giờ đã là chuyện không có gì quá xa xỉ với một người Việt Nam. Giày chạy sản xuất ở Indonesia hay Ấn Độ, điện thoại iPhone của Mỹ hay Samsung của Hàn Quốc… đều di chuyển hàng chục nghìn kilômet trước khi tới tay người sử dụng.
Ở một thời điểm bất kỳ trên các đại dương ngày nay, ta có thể đếm được trung bình 5.000 chiếc tàu container. Dù số lượng có thể đã giảm đôi chút do cú sốc đại dịch COVID-19, tình trạng Trung Quốc đóng cửa và cuộc chiến ở Ukraine, thương mại, cả về hàng hóa lẫn ý tưởng, vẫn là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Bản thân điều đó không có gì mới mẻ. Cơ sở lý luận cho nó có lẽ được nêu ra đầu tiên bởi kinh tế gia người Anh David Ricardo vào nửa đầu thế kỷ 19. Ý tưởng trọng thương của ông, ra đời khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu tăng tốc, biện minh cho việc gỡ bỏ những rào cản thương mại. Các phát minh như điện tín, tàu hơi nước đi xuyên đại dương cũng giúp thương mại và đầu tư nước ngoài nở rộ.
Doanh nhân Anh bỏ tiền mở nhà máy thép ở Mỹ, làm đường sắt ở Argentina và khai mỏ vàng ở Nam Phi, người Pháp làm đường sắt ở Đông Dương, khai thác than và mở đồn điền cao su, những thương vụ "FDI" của sơ kỳ lịch sử hiện đại. Số lượng và khoảng cách con người đi lại cũng tăng nhanh chưa từng có tiền lệ.
Giai đoạn toàn cầu hóa thứ hai bắt đầu từ cuối những năm 1940, với Thỏa thuận chung về thuế quan và thương mại (GATT, tiền thân của WTO) được vài chục quốc gia ký kết. Thương mại tự do hơn thúc đẩy sản xuất: tới năm 1957, tổng giá trị hàng hóa chế tạo xuất khẩu của thế giới đã bằng với giá trị hàng hóa nguyên liệu thô, và vượt qua vào năm 1960, bất chấp việc ngành dầu mỏ tăng trưởng mãnh liệt. Tuy nhiên, nhiều nước Á, Phi và Mỹ Latin vẫn chưa được kết nối với nền kinh tế thế giới. Năm 1967, châu Á ước tính chỉ chiếm 1% tổng xuất khẩu hàng khô (dry cargo) của thế giới.
Tới những năm 1980, ba xu hướng mới bùng nổ làm thương mại toàn cầu đảo lộn một lần nữa.
Thứ nhất là những thay đổi với vận tải biển bằng container. Năng suất của ngành vận tải đường dài bùng nổ ở Mỹ, tăng trưởng 29% trong giai đoạn 1985 - 1987. Hàng trăm công ty mọc lên cung cấp dịch vụ liên vận: xe tải, đường sắt, cảng biển, tất cả kết nối với nhau. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ: lần đầu tiên trong lịch sử các hãng tàu có thể chuyển hàng hóa từ Singapore tới St Louis chỉ bằng một cuộc điện thoại, một lần chi trả và đảm bảo hàng tới đúng giờ.
Thay đổi lớn thứ hai là chi phí thông tin liên lạc giảm mạnh. Cước các cuộc gọi quốc tế từng cực đắt, việc trao đổi làm ăn thường tiến hành bằng điện tín, với bất lợi là khó có thể thảo luận các quyết định chiến lược phức tạp. Nhờ các tuyến cáp dưới biển mới, chi phí gọi điện thoại quốc tế giảm mạnh: số lượng cuộc gọi quốc tế từ Mỹ tăng gấp 3 lần giai đoạn 1980 - 1987.
Cuối cùng, chi phí điện toán xuống thấp vào cuối những năm 1980. Máy tính trở nên phổ biến hơn và có thể nén lượng dữ liệu lớn để trình bày kết quả trên màn hình thay vì những bản in cồng kềnh. Phần mềm cũng bắt đầu xuất hiện để tính toán công tác kho vận tối ưu. Một công ty ở Chicago giờ có thể sở hữu dữ liệu sản xuất thời gian thực từ một nhà cung cấp ở Hong Kong, tạo ra sự kết nối chưa từng thấy.
Tất cả làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt nền kinh tế thế giới. Hàng hóa chế tạo vận tải biển chiếm chưa tới một nửa tổng giá trị thương mại toàn cầu những năm 1980; tới cuối những năm 1990, tỉ lệ đó là ba phần tư. Không chỉ thành phẩm hay hàng hóa nguyên vật liệu, hàng hóa trung gian - tức linh kiện và cấu phần chờ được lắp ráp - giờ cũng được chở khắp toàn cầu.
Tới cuối những năm 1990, những hàng hóa này, khóa kéo làm ở Nhật Bản để gắn vào quần áo may ở Trung Quốc hay chip làm ra ở Mỹ đưa tới lắp ráp vào thiết bị điện tử ở Malaysia, chiếm 29% thương mại quốc tế, và ngày nay lên tới 70%. Chuỗi cung ứng cực dài này chính là toàn cầu hóa thế hệ ba.
Lãnh đạo các doanh nghiệp toàn cầu háo hức với cơ hội tiết kiệm chi phí nhờ chuyển sản xuất sang các nước có lao động rẻ. Họ ngày càng ít chú ý tới rủi ro của chuỗi cung ứng quá dài, quá nhiều nhà cung cấp. Dần dần, các công ty sở hữu thương hiệu trên đỉnh chuỗi thức ăn không còn hiểu biết gì nhiều về nhà cung cấp của nhà cung cấp của họ. Cho đến khi Covid-19 ập đến.
Nhưng thương mại quốc tế đã quá lớn và quá thiết yếu đến mức ngay cả một đại dịch toàn cầu cũng không thể gây ra sự đứt gãy kéo dài. Báo cáo Cập nhật thương mại toàn cầu của UNCTAD (Hội nghị Thương mại và phát triển Liên Hiệp Quốc) tháng 2-2022 cho biết năm 2021, thương mại hàng hóa thế giới vừa lập kỷ lục lịch sử với tổng giá trị 28,5 nghìn tỉ USD (GDP của Mỹ năm 2021 là 23 nghìn tỉ USD), tăng 25% so với năm 2020 và 13% so với 2019, trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát.
Thương mại mở và toàn cầu hóa, do đó, là không thể đảo ngược, bất chấp mọi biến cố lớn lao đã và vẫn đang xảy ra.■
Xem thêm: mth.87034451152602202-cougn-oad-ohk-eht-ux-om-iam-gnouht-ioht-iol-ad-otw/nv.ertiout