Lý giải về quyết định giảm lãi suất điều hành lần thứ tư liên tiếp, NHNN cho hay, nguyên nhân là do tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục giảm tốc, gặp khó khăn, một số nền kinh tế rơi vào suy thoái. Trong nước, chỉ số kinh tế tăng thấp hơn cùng kỳ phản ánh tác động tiêu cực từ cầu nước ngoài suy giảm mạnh và những khó khăn nội tại của nền kinh tế.
Trong khi đó, thị trường tiền tệ ổn định, thanh khoản hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) dồi dào và dư thừa, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi trả của nền kinh tế. Thị trường ngoại tệ ổn định, thanh khoản thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ. Từ đầu năm 2023 đến nay, NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung Dự trữ ngoại hối, góp phần đưa vào lưu thông một lượng lớn tiền VND tương ứng. Các giải pháp nêu trên đã góp phần tạo thanh khoản dồi dào trên thị trường, qua đó bình ổn và làm giảm mặt bằng lãi suất thị trường liên ngân hàng, hỗ trợ TCTD giảm lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế.
Trong bối cảnh, lạm phát mặc dù tăng nhưng đã có xu hướng chậm lại, tăng trưởng kinh tế còn nhiều khó khăn như đề cập ở trên, để tạo thêm nền tảng cho các TCTD tiếp tục giảm lãi suất cho vay và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế theo định hướng của Quốc Hội và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; từ đầu năm 2023 đến nay, NHNN đã điều chỉnh giảm 04 lần các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm 0,5-2,0 %/năm. Đồng thời, NHNN chỉ đạo các TCTD triệt để tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế phục hồi sản xuất kinh doanh.
Việc NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để thực hiện mục tiêu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; qua đó NHNN tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay thị trường, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế. Đồng thời, việc điều chỉnh giảm trần lãi suất tiền gửi bằng VND các kỳ hạn từ 1 đến dưới 6 tháng cũng hỗ trợ các TCTD giảm chi phí đầu vào, từ đó có điều kiện thuận lợi tiếp tục giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng giảm chi phí tài chính.
“Quyết định của NHNN trong việc giảm trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của TCTD lần này tạo điều kiện để doanh nghiệp và người dân có thể tiếp cận nguồn vốn vay chi phí thấp để phục vụ sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực ưu tiên, các lĩnh vực trọng yếu là động lực cho tăng trưởng kinh tế theo đúng chủ trương của Chính phủ. Việc tiếp tục giảm lãi suất điều hành của NHNN khẳng định và xác lập xu hướng giảm lãi suất cho thị trường trong thời gian tới, qua đó định hướng TCTD mạnh dạn và quyết liệt hơn trong việc giảm lãi suất cho vay, đồng hành cùng doanh nghiệp và người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phục hồi kinh tế”, NHNN khẳng định.
Mặc dù giảm lãi suất, song NHNN khẳng định không chủ quan với áp lực lạm phát (lạm phát cơ bản hiện vẫn khá cao, bình quân 5 tháng đầu năm là 4,83%) trong bối cảnh lạm phát toàn cầu được dự báo còn tiếp tục duy trì ở mức cao; các NHTW lớn vẫn tiếp tục tiến trình thắt chặt CSTT, neo giữ lãi suất ở mức cao.
Do đó, NHNN tiếp tục theo dõi sát diễn biến trong nước, quốc tế, dự báo lạm phát và lãi suất thị trường để tiếp tục chỉ đạo các TCTD có các giải pháp tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
TS. Nguyễn Hữu Huân, Trường đại học Kinh tế TP.HCM đánh giá, quyết định giảm lãi suất điều hành lần này của NHNN sẽ “tiêm” thêm liều thuốc cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận lãi suất với mức chi phí rẻ hơn. Đây là hành động thể hiện sự chủ động của chính sách tiền tệ. Có thể nói, chính sách tiền tệ trong thời gian qua đã có sự năng động, tích cực bằng nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong bối cảnh khó khăn.
Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng việc giảm lãi suất điều hành liên tục cũng tiềm ẩn một số rủi ro có thể xảy ra trong tương lai như đảo chiều dòng vốn, vì thế giảm lãi suất không phải là tất cả. Trong một nền kinh tế, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá phải như “hai cánh kéo”, cả hai cùng kéo mới tạo ra hiệu quả. Hiện nay, có thể nhận thấy chỉ có chính sách tiền tệ có sự năng động thực thi các chính sách kích thích kinh tế, còn chính sách tài khoá đang không thực hiện đúng vai trò. Điều cần làm hiện tại là sự vào cuộc mạnh mẽ hơn của chính sách tài khoá, kích cầu tiêu dùng, sản xuất kinh doanh. Bởi lẽ, lãi suất có giảm sâu mà doanh nghiệp, người dân không có nhu cầu thì họ cũng không vay vốn. Trong lúc này, giải pháp cần thiết nhất là phải đẩy nhanh đầu tư công để tiếp sức cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Lãi suất điều hành giảm thêm 0,5%
Ngân hàng Nhà nước vừa quyết định cắt giảm một loạt lãi suất điều hành thêm 0,25 - 0,5%, áp dụng từ đầu tuần tới (19/6).
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành 3 quyết định giảm một loạt lãi suất điều hành, bao gồm: trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng; trần lãi suất cho vay ngắn hạn; lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng.
Cụ thể, Quyết định số 1123/QĐ-NHNN ngày 16/6/2023 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng.
Theo đó, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 5,0%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ mức 3,5%/năm xuống 3,0%/năm.
Quyết định số 1124/QĐ-NHNN ngày 16/6/2023 về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam (VND) của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-NHNN ngày 17/3/2014.
Theo đó, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giữ nguyên ở mức 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ mức 5,0%/năm xuống 4,75%/năm, riêng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND tại Quỹ tín dụng nhân dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,25%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.
Quyết định số 1125/QĐ-NHNN ngày 16/6/2023 về mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế giảm từ mức 4,5%/năm xuống 4,0%/năm; riêng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của Quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô đối với các nhu cầu vốn này giảm từ mức 5,5%/năm xuống 5,0%/năm
Việc ban hành các quyết định trên nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm mặt bằng lãi suất, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận vốn, góp phần phục hồi sản xuất kinh doanh.
Mới đây, Văn phòng Chính phủ vừa ban hành văn bản số 225/TB-VPCP thông báo kết luận của Thường trực Chính phủ tại cuộc họp về những nhiệm vụ, giải pháp lớn ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế trong tình hình hiện nay.
Thường trực Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao khẩn trương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ; khẩn trương có ngay các giải pháp thiết thực, cụ thể để giảm mặt bằng lãi suất; trong đó giảm lãi suất điều hành ngay trong tháng 6/2023 và định hướng giảm lãi suất huy động và cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng nhằm tích cực hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng; khắc phục hiệu quả ngay việc tăng trưởng tín dụng thấp như 5 tháng vừa qua.
Xác định hạn mức tăng trưởng tín dụng cần thiết, hợp lý trong năm 2023, phân bổ hết hạn mức tín dụng và thông báo công khai ngay trong tháng 6 năm 2023 để các tổ chức tín dụng chủ động mở rộng tín dụng từ nay đến hết năm 2023; chú ý đến tín dụng bất động sản và tín dụng sản xuất kinh doanh nhằm hỗ trợ thị trường, góp phần khôi phục và khơi thông dòng vốn đầu tư và kinh doanh cho nền kinh tế.
Tập trung điều hành thị trường liên ngân hàng, tạo điều kiện thanh khoản cho các tổ chức tín dụng theo hướng giảm dần lãi suất, bảo đảm vốn cho các tổ chức tín dụng, phát huy vai trò dẫn dắt của các ngân hàng thương mại nhà nước.
Tiếp tục cải cách, cắt giảm các thủ tục hành chính, tiết giảm chi phí, nâng cao hơn nữa khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp và người dân; cương quyết cắt giảm các loại phí, lệ phí không cần thiết để hỗ trợ cho khách hàng vay vốn.
Khẩn trương rà soát, xem xét, sửa đổi phù hợp một số tiêu chí, điều kiện, hướng dẫn cho vay theo hướng tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Có giải pháp tháo gỡ khó khăn về tín dụng cho các doanh nghiệp, dự án bất động sản, nhất là đối với các Dự án khả thi, hiệu quả, các doanh nghiệp có năng lực;
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp; đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng;
Rà soát gói tín dụng 40.000 tỷ đồng và 120.000 tỷ đồng với các điều kiện cho vay kịp thời, thuận lợi, thông thoáng, linh hoạt, khả thi, hợp lý hơn;
Khẩn trương đề xuất gói tín dụng 10.000 tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp ngành sản xuất, chế biến lâm sản, thủy sản và các gói tín dụng hỗ trợ phù hợp các lĩnh vực cần thiết khác.
Chính phủ cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo, kêu gọi các ngân hàng thương mại đề cao trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh, phát huy tinh thần đồng hành, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và người dân.
Sóng ngầm lãi suất và sự phân hóa ngân hàng
Động thái mới của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) về lãi suất kỳ vọng sẽ giúp mặt bằng lãi suất giảm đồng đều hơn, thay vì phân hóa thành hai thái cực như hiện nay.
Tính đến giữa tuần này, thêm một loạt ngân hàng TMCP công bố giảm thêm lãi suất huy động. Nhìn vào biểu lãi suất niêm yết của các ngân hàng, tưởng chừng lãi suất đã hạ nhiệt. Theo đó, ở kỳ hạn 6 - 12 tháng, lãi suất niêm yết cao nhất thuộc về ABBank, GPBank với 8,2 - 8,3%/năm. Lãi suất cao nhất thị trường ở kỳ hạn 36 tháng thuộc về ABBank với lãi suất 8,5%/năm.
Tuy nhiên, theo khảo sát của phóng viên Báo Đầu tư vào ngày 14/6, mặt bằng lãi suất đang bị phân hóa mạnh mẽ. Trong khi các ngân hàng lớn (big 4) giảm mạnh lãi suất huy động, đi kèm là giảm lãi suất cho vay, thì khối ngân hàng TMCP tư nhân dè dặt hơn trong giảm lãi vay. Đồng thời, một loạt ngân hàng vẫn đang áp dụng lãi suất cao để huy động vốn.
Hiện tại, nhiều ngân hàng TMCP đang áp dụng lãi suất “ưu tiên” cao hơn 1-1,5% so với lãi suất niêm yết. Theo đó, chỉ với khoản tiền từ 300 - 500 triệu đồng trở lên, người gửi đã có thể thỏa thuận với ngân hàng các mức lãi suất hấp dẫn.
Mức lãi suất huy động phổ biến được nhiều ngân hàng mời chào dành riêng cho khách hàng ưu tiên là 8,7 - 9,5%/năm, tùy mức tiền gửi và kỳ hạn gửi. Các ngân hàng có mức lãi suất hấp dẫn có thể kể tới như VietABank, KienLongBank, ABBank, SHB, HDBank… Thậm chí, nhân viên ngân hàng H. còn mời chào lãi suất huy động trên 10%/năm áp dụng với các khoản tiền gửi hàng chục tỷ đồng. Được biết, tập đoàn lớn đứng sau ngân hàng này đang đứng trước áp lực đáo hạn trái phiếu hàng chục ngàn tỷ đồng.
Với giá vốn huy động như trên, rõ ràng rất khó để các ngân hàng có thể giảm nhanh và đại trà mặt bằng lãi suất cho vay trong vòng nửa năm tới, chưa kể số vốn huy động lãi suất cao cuối năm 2022 còn chưa “tiêu thụ” hết.
Theo các chuyên gia, sở dĩ mặt bằng lãi suất huy động có sự phân hóa mạnh là do các ngân hàng thương mại quốc doanh có nhiều lợi thế: uy tín, thương hiệu, tiền gửi giá rẻ từ ngân sách. Bên cạnh đó, tín dụng tăng chậm, nợ xấu kiểm soát tốt, không cho vay nhiều lĩnh vực rủi ro… khiến các ngân hàng này không gặp áp lực về vốn.
Trong khi đó, nhiều ngân hàng TMCP tư nhân bị hao hụt lượng lớn vốn huy động khi sự cố SCB xảy ra vẫn chưa bù đắp được, cộng thêm áp lực về trái phiếu doanh nghiệp, xử lý nợ xấu, tái cơ cấu… nên nhu cầu vốn vẫn rất lớn, buộc phải duy trì lãi suất huy động ở mức cao.
Với tín hiệu của nền kinh tế Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã tạm dừng lộ trình tăng lãi suất sau 10 lần tăng liên tiếp. Đây là điều kiện thuận lợi để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể giảm thêm lãi suất điều hành. Tuy nhiên, với khó khăn của doanh nghiệp hiện nay, giảm lãi suất không phải là chìa khóa để giải quyết khó khăn.
Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP OCB cho rằng, không thể chỉ bằng một chính sách đơn lẻ mà doanh nghiệp có thể thoát khỏi khó khăn. Giảm lãi suất có hiệu ứng tích cực tới nền kinh tế, song cần thêm nhiều chính sách đồng bộ khác. “Trong mỗi quốc gia, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa phải luôn có sự song hành, giống như cả hai bàn tay cùng vỗ”, ông Tùng nói.
TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia cũng cho rằng, dư địa giảm thêm lãi suất điều hành vẫn còn, thậm chí có thể giảm về mức 4% vào năm 2025. Tuy nhiên, giảm lãi suất là chưa đủ để hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh cầu yếu, đầu ra không có như hiện nay. Theo chuyên gia này, các chính sách tài khóa, hỗ trợ an sinh phải vào cuộc đồng bộ với chính sách tiền tệ (giảm lãi suất) thì mới có thể kích cầu đầu tư, tiêu dùng, tín dụng, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, giúp doanh nghiệp thoát khó khăn.
Ngoài khó khó khăn của khu vực sản xuất, kinh doanh, sự khó khăn, bế tắc của thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa được tháo gỡ hiệu quả cũng là nguyên nhân gây nên điểm nghẽn dòng tiền. Chỉ khi tất cả các mối rối này được gỡ, dòng tiền mới có thể luân chuyển, tín dụng mới có thể lưu thông.
Đương nhiên, giảm lãi suất vẫn là biện pháp vô cùng quan trọng để hỗ trợ doanh nghiệp. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, ngoài các doanh nghiệp xuất khẩu - hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường thế giới - thì việc kéo giảm thêm lãi suất cho vay về mức hợp lý (khoảng 8 - 9%/năm) sẽ làm giảm áp lực nợ vay cho doanh nghiệp, kích thích sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng nội địa. Muốn giảm lãi suất, giải pháp khả thi nhất hiện nay là giảm lãi suất điều hành và tăng cung tiền. Đây là điều NHNN nên cân nhắc, tính toán để có giải pháp ngay trong 6 tháng cuối năm.
Thiếu cơ chế giám sát mô hình tập đoàn tài chính: Nỗi lo ngân hàng bị sân sau lũng đoạn
Mô hình ngân hàng - tập đoàn tài chính đã phát triển từ lâu trên thế giới. Ở nước ta, những năm qua, nhiều ngân hàng cũng tuyên bố theo đuổi mô hình này. Trong mô hình đó, ngân hàng thương mại sẽ là hạt nhân, kết nối với một hệ sinh thái các công ty liên quan để bán chéo dịch vụ (gồm cả dịch vụ tài chính và phi tài chính), phục vụ gần như toàn bộ nhu cầu của khách hàng.
Mô hình ngân hàng - tập đoàn tài chính mang lại nhiều lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Tuy vậy, ở nước ta, mô hình ngân hàng - tập đoàn tài chính lại dấy lên lo lắng sân sau, xuất phát từ cơ cấu sở hữu phức tạp, thiếu minh bạch. Việc SCB bị rơi vào kiểm soát đặc biệt do bị Vạn Thịnh Phát - tập đoàn bất động sản đứng sau với 762 công ty liên quan - chi phối, lũng đoạn cho thấy mối nguy này là có cơ sở.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, SCB không phải là trường hợp duy nhất tiềm ẩn rủi ro bởi các tập đoàn sân sau.
“Rất nhiều doanh nghiệp, tập đoàn sân sau của các ngân hàng nước ta hiện nay có hàng chục, thậm chí hàng trăm công ty con. Câu hỏi đặt ra là, họ thành lập hàng trăm công ty con để làm gì? Câu trả lời rất đơn giản: để vay vốn ngân hàng, bán trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), “đánh chéo” để đổi TPDN thành tiền… Vấn đề này ai cũng biết, nhưng lại thiếu cơ chế để kiểm soát, xử lý cho đến khi đổ bể như SCB”, ông Nghĩa cảnh báo.
Theo cơ chế hiện hành, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ có thể “thò tay” vào giám sát các tổ chức tín dụng, không thể “sờ” vào công ty con của các tập đoàn kinh tế đứng sau ngân hàng. Chính vì vậy, khi đổ vỡ xảy ra thì đã quá muộn.
Đại biểu Quốc hội Văn Thị Bạch Tuyết (TP.HCM) khẳng định, có mối quan hệ sở hữu chéo giữa các ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp. Việc các tập đoàn kinh tế thành lập các ngân hàng để huy động vốn phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp mình giữ cổ phần vốn sở hữu, dẫn đến khó kiểm soát, hoạt động thiếu minh bạch, dễ dẫn đến sai phạm và ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng chung, nguy cơ ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền. Do đó, đại biểu này cho rằng, Chính phủ, NHNN cần nghiên cứu để quy định chặt chẽ để xử lý các vấn đề này.
Ngoài nguy cơ ngân hàng bị các ông chủ lũng đoạn thông qua mạng lưới chằng chịt công ty con, mô hình ngân hàng - tập đoàn còn tiềm ẩn rủi ro bởi các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư. Đây là lý do khiến nhiều chuyên gia cho rằng, cần có hành lang pháp lý để bóc tách ngân hàng đầu tư khỏi ngân hàng thương mại, đồng thời phải có hành lang pháp lý với mô hình này.
“Việt Nam hiện chưa có khung pháp lý với mô hình ngân hàng đầu tư, hay tập đoàn tài chính. Tôi cho rằng, đã đến lúc NHNN cần phải tính đến vấn đề này”, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV khuyến nghị.
Trong khi đó, bà Phạm Thị Thanh Mai, đại biểu Quốc hội (Hà Nội) cho rằng, NHNN nên bổ sung các quy định về tập đoàn tài chính ngay trong dự thảo Luật Các tổ chức tín đụng dang được đưa ra lấy ý kiến bởi 3 nguyên nhân.
Thứ nhất, tại Chương VIII, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về nhóm công ty, trong đó có quy định về tập đoàn kinh tế, nhóm công ty, nhưng chưa cụ thể. Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp đặc thù, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nên cần quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, tại Việt Nam đã hình thành một số mô hình tập đoàn tài chính, ngân hàng, nhưng chưa có quy định cụ thể điều chỉnh nên khó xác định mức độ sở hữu chéo, rủi ro tập trung và rủi ro lan truyền, các hạn chế về hoạt động trên thực tế.
Thứ ba, tại chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 986, (năm 2018) đã quy định hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, xác định trách nhiệm của NHNN trong việc thanh tra, giám sát các tập đoàn tài chính dưới hình thức công ty mẹ, công ty con, trong đó công ty mẹ là tổ chức tín dụng đầu mối, phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu cho Chính phủ xây dựng khuôn khổ pháp lý về tập đoàn tài chính.
Một số ý kiến cũng cho rằng, từ kinh nghiệm trên thế giới, các quốc gia đều có quy định về công nhận và hoạt động của tập đoàn tài chính trong các luật chuyên ngành về ngân hàng thương mại, chứng khoán hoặc bảo hiểm. Thậm chí, có tới 11 quốc gia/vùng lãnh thổ có luật về tập đoàn tài chính. Việc giám sát các tập đoàn tài chính sẽ tập trung vào: tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ cấp tín dụng tập trung, quy định về giao dịch nội bộ,về quản trị điều hành…
Việc đưa ra quy định cụ thể đối với tập đoàn tài chính sẽ giúp quản lý và giám sát hoạt động nội bộ tập đoàn tài chính minh bạch hơn, đảm bảo an toàn hoạt động cho tổ chức tín dụng, nhất là hoạt động cấp tín dụng, tránh xảy ra các trường hợp tương tự như SCB.
Ngân hàng phân trần chuyện “ế vốn”
Cầu vốn của nền kinh tế quá yếu đã khiến nhiều ngân hàng lớn phải “hãm” huy động vốn và cạnh tranh quyết liệt tìm khách vay.
Mặc dù có lãi suất cho vay hấp dẫn nhất hệ thống, song khối ngân hàng thương mại có vốn nhà nước cũng không dễ tăng tín dụng. Lãnh đạo Agribank cho biết, tín dụng của ngân hàng này tăng trưởng âm 4 tháng đầu năm và mới chỉ tăng trở lại từ tháng 5/2023. Thị trường khó khăn, tiêu thụ nông sản yếu khiến nhu cầu tín dụng suy giảm mạnh.
Tại VietinBank, ông Trần Minh Bình, Chủ tịch HĐQT ngân hàng này cho biết, việc triển khai kế hoạch sớm kế hoạch kinh doanh năm 2023 từ cuối năm 2022 đã giúp kết quả kinh doanh của Ngân hàng vẫn tạm thời theo đúng kế hoạch kỳ vọng. Tính tới cuối tháng 5/2023, VietinBank là ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhất trong nhóm ngân hàng thương mại có vốn nhà nước, với mức tăng 6%, gấp đôi mức tăng trưởng trung bình toàn hệ thống. Mặc dù vậy, trong tháng 5/2023, tín dụng Ngân hàng đã bắt đầu sụt giảm.
“VietinBank còn như vậy, nhiều ngân hàng chắc chắn sẽ còn khó khăn hơn”, Chủ tịch VietinBank nhận định.
Vietcombank chưa công bố số liệu tăng trưởng tín dụng 6 tháng, song nhiều khả năng vẫn đứng ở mức thấp. Tính tới cuối quý I/2023, tăng trưởng tín dụng của Vietcombank thấp nhất trong vòng 5 năm gần đây, chỉ ở mức 2,5%.
Tính trên toàn hệ thống, tín dụng đến hết 5/2023 chỉ tăng khoảng 3,17% so với cuối năm 2022 (thấp hơn nhiều mức tăng xấp xỉ 8% cùng kỳ năm 2022).
Phó thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết, đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, chiếm khoảng 44% thị phần tín dụng, thì tăng trưởng mới được khoảng 35% so với “room” được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giao. Trong khi đó, nhóm ngân hàng TMCP tư nhân còn lại mới thực hiện được khoảng 50% room tín dụng được giao.
“Sức hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu, yếu hơn đáng kể so với năm ngoái, vẫn còn rất nhiều dư địa để tăng trưởng cho thời gian còn lại của năm”, Phó thống đốc cho biết.
Đáng chú ý, đầu tàu TP.HCM tăng trưởng tín dụng rất chậm, tín dụng tháng 5 ước chỉ tăng khoảng 0,7%. Theo dự báo của các ngân hàng thương mại, cầu tín dụng thấp suốt cả quý II/2023 và khó có thể tăng mạnh nửa cuối năm, dù lãi suất cho vay đã giảm đáng kể sau khi NHNN 3 lần giảm lãi suất điều hành từ đầu năm đến nay.
Trong bối cảnh tín dụng tăng chậm, nhiều ngân hàng - nhất là các ngân hàng lớn - đã giảm lãi suất huy động khá xa trần để “hãm” bớt huy động vốn. Ông Trần Minh Bình cho hay, huy động vốn của VietinBank 5 tháng đầu năm chỉ tăng 3,6%, tức bằng nửa tốc độ tăng tín dụng. “Chúng tôi không huy động vốn bằng mọi giá, mà chỉ huy động đủ với nhu cầu để nâng cao hiệu quả hoạt động”, Chủ tịch VietinBank nói.
Tín dụng tăng chậm, một số doanh nghiệp cho rằng, nguyên nhân là do ngân hàng quá khắt khe cho vay. Tuy nhiên, trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, ông Lê Ngọc Lâm, Tổng giám đốc BIDV cho hay, ngân hàng là lĩnh vực cạnh tranh khốc liệt với hơn 100 tổ chức tín dụng (cả trong và ngoài nước). Do đó, nếu doanh nghiệp không thể vay vốn tại ngân hàng A thì có thể chuyển sang ngân hàng B, vì khẩu vị rủi ro của mỗi ngân hàng khác nhau, có ngân hàng quy định chặt chẽ, song có ngân hàng “lỏng tay” hơn một chút. Việc tín dụng tăng chậm trên toàn hệ thống hiện nay là xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác.
“Câu chuyện doanh nghiệp khó tiếp cận được vốn tín dụng đến từ nhiều nguyên nhân: từ cầu nền kinh tế, năng lực khách hàng vay đang bị suy giảm, không đáp ứng được điều kiện vay vốn... Trong khi đó, các ngân hàng không thể hạ chuẩn tín dụng để phục vụ hết các nhu cầu của khách hàng”, ông Lâm nói.
Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần kỳ vọng lãi suất hạ nhiệt sẽ kích thích nhu cầu vốn tăng trở lại. Tuy vậy, trong bối cảnh cầu thị trường thế giới vẫn chưa có sự chuyển biến, giảm lãi suất mới chỉ là điều kiện cần để “bẩy” nhu cầu vốn. Hiện tại, các ngân hàng đang cạnh tranh gay gắt lẫn nhau để cho vay.
“Với các khách hàng tốt, có phương án kinh doanh khả thi, các ngân hàng đang cạnh tranh gay gắt để lôi kéo. Tuy nhiên, với một bộ phận khách hàng khác sẵn sàng vay bằng mọi giá, thì ngân hàng không dám giải ngân vì không nhìn thấy phương án kinh doanh cũng như dòng tiền khả thi”, ông Lê Ngọc Lâm cho biết thêm.
Trong nỗ lực thu hút khách, mới đây, thêm hàng loạt ngân hàng TMCP tuyên bố giảm lãi suất cho vay nhằm kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Dù vậy, mặt bằng lãi suất cho vay vẫn chưa thể hạ về mức trước đại dịch do các ngân hàng vẫn còn tồn kho một lượng không nhỏ vốn đắt huy động trước đó.
Hiện tại, nhiều ngân hàng TMCP tư nhân giảm lãi vay, nhưng chỉ áp dụng với các khoản vay mới. Trong đó, các ngân hàng TMCP có vốn nhà nước giảm lãi vay cho cả các khoản vay hiện hữu.
Bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank cho biết, năm nay, ngân hàng này giảm lãi suất cho cả các khoản vay hiện hữu - đồng nghĩa chấp nhận giảm mạnh biên lợi nhuận (NIM) - để hỗ trợ doanh nghiệp. Mặc dù vậy, xét trên toàn hệ thống, bà Phượng cho rằng, “đỉnh” giá vốn ngân hàng sẽ là quý IV/2023 (khi các khoản huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất cao từ quý IV/2022 đáo hạn). Do đó, lãi suất cho vay thời gian tới sẽ giảm dần, song chỉ có thể giảm mạnh vào năm tới, khi hệ thống ngân hàng thực sự quân bình được lượng vốn huy động giá rẻ.
Siết tỷ lệ cấp tín dụng với khách hàng lớn: Lo doanh nghiệp bị đứt gãy vốn đột ngột
Tại Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng, ngân hàng Nhà nước siết giảm mạnh tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng. Theo đó, tổng dư nợ mà các ngân hàng thương mại có thể cấp cho một khách hàng giảm từ mức 15% vốn tự có như hiện tại sẽ giảm xuống còn 10%; với một khách hàng và người có liên quan giảm từ 25% xuống còn 15% (bao gồm cả tín dụng lẫn trái phiếu).
Quy định này của Ngân hàng Nhà nước nhằm hạn chế tình trạng rủi ro từ tập trung tín dụng đã gây ra những hệ lụy không tốt đến thị trường tài chính trong nước thời gian vừa qua. Mặc dù vậy, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, cần hết sức cân nhắc quy định này.
Đại biểu Trần Chí Cường (TP. Đà Nẵng) cho rằng, bên cạnh việc thu hẹp khá lớn về room tín dụng được cấp cho khách hàng như vừa nêu trên, do dự thảo luật còn mở rộng định nghĩa phạm vi, đối tượng về người có liên quan, đó là công ty con của công ty con của tổ chức tín dụng, mở rộng người có liên quan hệ huyết thống.
Điều này dẫn đến tổng dư nợ cấp tín dụng cho nhóm khách hàng sẽ thấp hơn trước rất nhiều. Ngân hàng có thể cũng sẽ bị thu hẹp lượng khách hàng và khách hàng cũng sẽ bị thu hẹp về nguồn vốn được tiếp cận. Như vậy, có thể gây tác động bất lợi kép cho cả khách hàng và ngân hàng. Vấn đề này có thể ảnh hưởng lớn và tức thời, đó là nguồn cung vốn cung ứng cho nền kinh tế bị hạn chế hơn, trong bối cảnh nhiều khó khăn như hiện nay, kinh tế giảm sút, lãi suất tăng cao, tín dụng tăng trưởng thấp, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp vào nền kinh tế yếu, kênh huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề nên gần như không đảm bảo vai trò huy động vốn cho phát triển.
“Tôi cho rằng, việc giảm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng cần có sự đánh giá thật kỹ các tác động hiện nay, cần phân tích và đánh giá rõ hơn về thực trạng vay vốn và rủi ro trong thực tại để có giải pháp phù hợp, căn cơ nhất. Quy định mới nhưng không làm tác động quá lớn đến dòng vốn mà doanh nghiệp có thể tiếp cận, tạo điều kiện để đảm bảo dòng vốn thông suốt, phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản, xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không làm mất khả năng cạnh tranh môi trường đầu tư của Việt Nam so với các nước trong khu vực”, đại biểu Trần Chí Cường đề nghị
Đồng tình với ý kiến này, đại biểu Nguyễn Việt Hà (Tuyên Quang cũng cho rằng, việc thay đổi tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho 1 khách hàng và người liên quan cần có lộ trình thực hiện phù hợp để đảm bảo không gây đứt gãy đột ngột nguồn vốn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dẫn đến rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng.
Lý do là, hiện nay, hoạt động kinh doanh hằng ngày của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn tín dụng đang được các tổ chức tín dụng cấp. Trên thực tế, khi chưa thực hiện điều chỉnh giảm thì đã có doanh nghiệp gần như chạm trần tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng tại tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước.
Không chỉ các tập đoàn kinh tế tư nhân, mà các doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện các Dự án trọng điểm của nền kinh tế cũng có nguy cơ thiếu vốn.
“Việc siết chặt quy định về giới hạn cấp tín dụng nếu cần thiết như trình thì cần phải được làm rõ hơn tác động đối với các doanh nghiệp và đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty của doanh nghiệp nhà nước đang được giao thực hiện các dự án trọng yếu, quan trọng của nền kinh tế có sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng như dự án điện, dầu khí. Vấn đề này, chúng tôi rất mong muốn là phải có đánh giá tác động kỹ lưỡng hơn nữa. Đồng thời, quy định chặt chẽ trong việc xác định về người có liên quan để làm thế nào hạn chế được rủi ro tập trung đối với nhóm khách hàng”, đại biểu Phạm Thị Thanh Mai (Hà Nội) băn khoăn.
Trước lo lắng của các đại biểu Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho hay, trên thực tế, với hoạt động ngân hàng của Việt Nam thì nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào hệ thống ngân hàng. Các tổ chức quốc tế cũng cảnh báo rằng nếu như nhu cầu đầu tư tiếp tục phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng thì cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro bất cứ khi nào mà kinh tế thế giới, trong nước có những biến động phức tạp, ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân thì sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng. Khi ngân hàng ảnh hưởng thì domino sẽ rất hệ lụy đến nền kinh tế. Chính vì vậy, đồng bộ với việc phát triển ngành ngân hàng thì các thị trường như thị trường vốn, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp cần phải được phát triển đồng bộ. Hiện nay, Chính phủ đang có các giải pháp để hướng đến điều đó.
Mặc dù giảm room tín dụng được cấp cho một khách hàng hoặc nhóm khách hàng sẽ khiến doanh nghiệp khó khăn tiếp cận vốn, song Thống đốc cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép cơ chế là các tổ chức tín dụng đồng tài trợ.
“Nếu một ngân hàng cho vay một doanh nghiệp có nhu cầu vốn rất lớn thì mức độ tập trung rủi ro tín dụng sẽ rất lớn. Việc đồng tài trợ sẽ là chia rủi ro đối với các ngân hàng. Khi doanh nghiệp đấy bị làm sao thì bản thân các ngân hàng cũng chia sẻ rủi ro. Trong trường hợp các ngân hàng không đồng tài trợ được thì vẫn có một cơ chế là Thủ tướng Chính phủ quyết định. Khi đó các cơ quan quản lý sẽ đánh giá xem nhu cầu của doanh nghiệp, của tập đoàn lớn như là một số đại biểu nêu thì vẫn có cơ chế để Thủ tướng Chính phủ quyết định. Nếu để quy định như hiện hành, với nhu cầu vốn ngày càng tăng cao, vốn điều lệ ngày càng tăng cao thì có thể cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro”, Thống đốc lý giải.
Mặc dù vậy, trước băn khoăn của đại biểu Quốc hội, người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ tiếp tục rà soát để quy định làm sao cho phù hợp và đảm bảo nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân nhưng vẫn đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.