- Hà Nội: 336 dự án vi phạm pháp luật về đất đai
- Xem xét chính sách pháp luật về đất đai, tiền lương, phòng, chống tham nhũng
Đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Cán sự Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao và đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tổng kết Nghị quyết số 19-NQ/TW đồng chủ trì hội thảo.
Đồng chí Nguyễn Hòa Bình, đồng chí Trần Tuấn Anh đồng chủ trì hội thảo. |
Trên 80% vụ án hành chính là về đất đai
Phát biểu khai mạc, đồng chí Trần Tuấn Anh cho biết, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật. Tại Nghị quyết 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại”, bên cạnh việc đánh giá, khẳng định những kết quả rất tích cực đã đạt được, Ban Chấp hành Trung ương cũng đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém, trong đó nhận định: "Tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này còn lớn; thị trường bất động sản phát triển không ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch "ngầm" còn khá phổ biến; tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.
Và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW, Kết luận số 36-KL/TW ngày 6/9/2018 của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ tồn tại như: “Tình trạng vi phạm chính sách pháp luật đất đai còn diễn ra phổ biến, phức tạp”, “Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai chưa được cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền quan tâm kịp thời, xử lý dứt điểm” với nguyên nhân “Ý thức chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân chưa đầy đủ, chưa nghiêm”; “Vẫn còn tình trạng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức lợi dụng chức quyền tham ô, tham nhũng, sách nhiễu, lợi ích nhóm”.
Đồng ý với quan điểm trên, các tham luận và ý kiến phát biểu đã đi thẳng vào những hạn chế và bất cập của chính sách, pháp luật về đất đai, nhất là Luật Đất đai năm 2013 từ thực tiễn hoạt động trong lĩnh vực tư pháp. Các báo cáo và tham luận cho thấy đất đai là vấn đề phức tạp, có liên quan chặt chẽ đến đời sống của người dân và có ảnh hướng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Mặc dù có xu hướng giảm nhưng trong giai đoạn 2013 đến nay, đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đất đai vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các đơn thư khiếu nại, tố cáo (trên 60%). Các vụ án hành chính liên quan đến đất đai có xu hướng tăng liên tục từ mức chiếm 64,2% tổng số các vụ án về hành chính năm 2015 lên trên 80% năm 2020.
Cũng trong khoảng thời gian này, số lượng thụ lý, giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại liên quan đến đất đai chiếm 75% tổng số các vụ án Toà án nhân dân tối cao thụ lý, giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Các vụ án hình sự liên quan đến đất đai diễn ra rất đa dạng, động cơ, mục đích phạm tội rất phức tạp. Có nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, liên quan đến nhiều tổ chức, nhiều người, trong đó có cả cán bộ có chức vụ cao, gây thiệt hại lớn đối với tài sản của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức và niềm tin của xã hội đối với Đảng và Nhà nước.
Chính sách, pháp luật về đất đai còn chồng chéo
Tình trạng vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai xảy ra phổ biến trong các hoạt động chủ yếu như: Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất không đúng mục đích, không qua đấu giá quyền sử dụng đất, không theo quy hoạch đã được phê duyệt. Thu hồi, giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư không đảm bảo quyền lợi của Nhà nước, người sử dụng đất có đất bị thu hồi, nhà đầu tư, chậm trễ trong trả tiền đền bù. Quản lý đất đai trước và sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vi phạm trong việc xác định giá trị đất đai trước khi cổ phần hoá; chuyển mục đích sử dụng đất sau khi cổ phần hoá. Cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng trình tự thủ tục, không đúng thẩm quyền. Quản lý quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất không tương thích với các quy hoạch khác, thường xuyên bị điều chỉnh…
Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới các vi phạm trên là do còn có những hạn chế, bất cập trong chính sách, pháp luật về đất đai cũng như sự chồng chéo, chưa thống nhất trong một số quy định giữa Luật Đất đai 2013 với các hướng dẫn thi hành luật và với một số luật khác. Điều này dẫn đến sự lúng túng trong quản lý và tạo ra những khe hở của luật pháp để một số cá nhân và tổ chức lợi dụng tham nhũng và trục lợi, gây lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước. Thêm vào đó năng lực của bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai còn chưa cao, nhất là chất lượng nguồn nhân lực. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về đất đai còn sơ sài, thiếu thống nhất…
Phát biểu kết luận và bế mạc hội thảo, đồng chí Nguyễn Hòa Bình nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai. Đồng chí Nguyễn Hòa Bình lưu ý 4 vấn đề. Một là, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật chủ đạo là Luật Đất đai và hệ thống pháp luật liên quan: Phải đơn giản, tiện ích, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực thi; đồng bộ thống nhất với Hiến pháp, với các đạo luật, khắc phục xung đột, chồng chéo; bổ sung những khoảng trống chưa được điều chỉnh. Luật Đất đai phải tạo ra hành lang pháp lý chống được vi phạm, đặc biệt là tội phạm tham nhũng, đấu giá, đấu thầu. Đặc biệt phải đảm bảo quyền, lợi ích người dân theo nguyên tắc thị trường.
Hai là, tổ chức thực hiện các luật hiện hành, đặc biệt thực thi Luật Đất đai phải bảo đảm đầy đủ, nghiêm chỉnh hơn, tránh dự án giao rồi thành dự án treo, làm lãng phí nguồn lực; tăng cường thanh tra, kiểm soát xử lý nghiêm các vi phạm, tội phạm. Ba là, nghiên cứu, tổ chức lại các cơ quan thực thi pháp luật về đất đai một cách chuyên nghiệp hơn, đồng bộ hơn, trong đó có Tòa án về đất đai, cơ quan Thanh tra về đất đai. Bốn là, tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất đai.