Chiều 4/7, tại Hà Nội, Văn phòng Chính phủ tổ chức họp báo Chính phủ thường kỳ, cung cấp thông tin về tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 và nửa đầu năm 2023.
Buổi họp báo Chính phủ diễn ra dưới sự chủ trì của Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn, Người phát ngôn của Chính phủ. Cùng dự có đại diện lãnh đạo các bộ, ngành và đông đảo phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và địa phương.
Tại buổi họp báo, phóng viên đặt câu hỏi: Từ đầu năm đến nay, lãi suất liên tục giảm nhưng dư nợ tín dụng toàn ngành kinh tế lại rất thấp, thậm chí dư luận có thông tin "ế" tiền. Xin cho biết rõ hơn tình trạng này, nguyên nhân vì sao? Phải chăng có nghịch lý là doanh nghiệp cần tiền nhưng không đủ điều kiện vay, còn doanh nghiệp đủ điều kiện vay lại không muốn vay?
Hồi âm phóng viên, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú: Về điều hành lãi suất, từ đầu năm đến nay NHNN đã hạ lãi suất 4 lần từ 0,5%-2% cho những mức lãi suất điều hành; năm ngoái tăng 2 lần. Từ đó, các ngân hàng thương mại với số liệu tính đến hết tháng 6/2023, lãi suất huy động bình quân giảm từ 0,7-0,8%; lãi suất cho vay bình quân đã giảm từ 1-1,2%.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn Nhà nước bao giờ cũng đi đầu thực hiện các chính sách của NHNN. Nhiều ngân hàng có gói giảm rất sâu, dành cho những đối tượng, lĩnh vực cần có sự ưu đãi của Chính phủ và Nhà nước. Nhìn chung, đã đưa ra rất nhiều gói chủ động hạ lãi suất. Xu hướng chung tiếp tục hạ lãi suất trong thời gian tiếp theo.
Đối với lãi suất điều hành của NHNN, hiện nay cho vay theo nghiệp vụ thị trường mở chỉ có 4%, cho vay OMO hoặc cho vay để bù đắp thiếu hụt trong tính toán tạm thời của các ngân hàng thương mại, cho vay qua đêm chỉ 5%. Hai khoản cho vay này hầu như các ngân hàng thương mại thông thường đang thừa thanh khoản, không mặn mà với khoản cho vay của NHNN vì đây là khoản cho vay cuối cùng khi các ngân hàng thương mại cần để hưởng nguồn của NHNN.
Cho vay thông qua thị trường liên ngân hàng, cho vay qua đêm cũng từ 0,4-1%. Có thể nói là rất thấp; một tuần từ 0,8-1,5%, một tháng từ 3-3,2%. Có nghĩa là mức cho vay giữa các ngân hàng với nhau qua thị trường liên ngân hàng rất thấp.
Nhìn chung, lãi suất đang giảm tích cực, kể cả lãi suất điều hành và lãi suất cho vay.
Về dư nợ theo điều hành tín dụng, ngay từ đầu năm xác định từ 14-15% tăng trưởng tín dụng để phù hợp với kỳ vọng hay đúng hơn là chỉ tiêu của Quốc hội và Chính phủ đã giao, góp phần tăng trưởng kinh tế 6,5% và kiểm soát lạm phát trong vòng 4,5%.
Chúng tôi đặt ra 14-15%, nhưng đến hôm nay, dư nợ tín dụng mới tăng 4,2%, số tuyệt đối là 12.423.000 tỷ đồng. Tương đồng với đó là huy động vào khoảng 4,16%. Số tiền gửi huy động là 12.691.000 tỷ đồng. Có nghĩa là huy động cho vay ở thời điểm hiện nay tương đương, kể cả tốc độ, doanh số, số dư. Trong điều hành 14-15%, đến thời điểm hiện nay mới tăng 4,2%, trong giao tín dụng đã giao được khoảng 11% từ đầu năm, như vậy dư địa còn rất nhiều để các ngân hàng có thể cho vay.
Thanh khoản của các ngân hàng thương mại đang thừa. Tuy nhiên nói đến tiền không hẳn như vậy nhưng chính là tốc độ tín dụng đang tăng trưởng chậm. Đúng ra như các nước khi lãi suất tăng cao thì tín dụng có thể tăng trưởng âm, lãi suất chúng ta đã hạ theo thông thường thì tín dụng tăng.
Vì sao có câu chuyện tăng chậm hơn khi lãi suất giảm nhanh? Tôi xin đưa ra một số đánh giá dưới góc độ quản lý, điều hành cũng như thực tế của nền kinh tế:
Thứ nhất, tình hình nền kinh tế đang có nhiều khó khăn, suy giảm về cầu đầu tư, cầu tiêu dùng thấp, như vậy cầu tín dụng cũng không thể tăng cao được.
Thứ hai, sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp khó khăn, tồn kho nhiều, nhiều doanh nghiệp khó có đơn hàng, xuất khẩu cũng có những khó khăn nhất định. Thị trường bất động sản chưa sôi động lại, nhiều dự án chưa triển khai được, kể cả những dự án bất động sản thương mại và bất động sản nhà ở xã hội chưa được triển khai nhiều mặc dù NHNN tạo điều kiện về tín dụng cho lĩnh vực bất động sản, sẵn sàng đẩy mạnh những lĩnh vực tỉ lệ rủi ro thấp.
Thứ ba, những doanh nghiệp nhỏ và vừa đang khó tiếp cận tín dụng. Trước đây doanh nghiệp khó về năng lực tài chính để đảm bảo vay phải có khả năng trả nợ, đến nay càng khó hơn. Vấn đề này, Chính phủ, các bộ, ngành, các hiệp hội, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngành ngân hàng đang quyết liệt tháo gỡ. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp muốn vay nhưng không chứng minh được có thể trả nợ được không, nguyên tắc tối thiểu ngân hàng cho vay phải thu được nợ. Ngược lại, có doanh nghiệp, ngân hàng mời chào vay nhưng lại chưa có nhu cầu vay.
Đây là những nguyên nhân trực tiếp tạo ra những "khác thường" so với những năm trước khi lãi suất giảm mà tín dụng chưa tăng được nhanh. Tuy nhiên, cùng với đồng loạt các chính sách khác mà Chính phủ đang triển khai, hy vọng trong thời gian tới ngành ngân hàng đặt ra yêu cầu phải quản lý tốt, tập trung tăng cường hơn nữa để lãi suất tiếp tục theo hướng giảm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trên cơ sở các ngân hàng thương mại phải tính toán bảo đảm được an toàn tối thiểu cho mình và cắt giảm những chi phí cần thiết có điều kiện hạ lãi suất, cũng như cắt giảm các loại phí.
Bên cạnh đó, tăng cường cải cách thủ tục hành chính. Vừa qua, NHNN đã sửa Thông 39 và 06, qua đó tháo gỡ rất nhiều nội dung, đặc biệt ứng dụng công nghệ số nên đã tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp và ngân hàng tiếp cận tín dụng nhanh hơn, thuận lợi hơn.
Tiếp tục xem xét các đối tượng, lĩnh vực để cùng với các bộ, ngành có những chính sách đồng bộ. Chính sách giãn, hoãn, tái cơ cấu các khoản nợ sẽ tiếp tục được tăng cường cũng như chỉ đạo các ngân hàng thương mại, các hiệp hội quan tâm triển khai tốt. Đây là những chính sách rất trực tiếp hỗ trợ cho doanh nghiệp, tháo gỡ cho doanh nghiệp hiện nay.
* Cũng tại buổi họp báo, phóng viên đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư cung cấp thông tin tiến độ giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm. Liệu hết năm 2023 có thể giải ngân hết số tiền 'kỷ lục' hơn 700.000 tỷ đồng không?
Trả lời phóng viên, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết: Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ đã nêu rõ, dự kiến đến 30/6, số liệu giải ngân đạt gần 216.000 tỷ đồng. Đây là một con số khá lớn về tỉ lệ đạt khoảng 30,49% so với kế hoạch Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ năm 2022 (27,75%). Đặc biệt số tiền tuyệt đối so với năm 2022 chúng ta hơn rất lớn là khoảng 65.000 tỷ đồng. Điều đó cho thấy chuyển biến tích cực trong giải ngân vốn đầu tư công.
Nguyên nhân là chúng ta thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân ngay từ đầu năm mà Chính phủ đã chỉ đạo, cũng cho thấy sự nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong việc quan tâm giải ngân vốn đầu tư công.
Hiện nay, kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 với khối lượng khá lớn khoảng 711.000 tỷ đồng, bao gồm cả vốn kế hoạch năm 2023 và bổ sung từ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết số 43 của Quốc hội. Đây là nhiệm vụ khá lớn, nặng nề trong 6 tháng cuối năm, đòi hỏi tất cả các cấp, các ngành tiếp tục nỗ lực thực hiện các giải pháp từ đầu năm đến giờ chúng ta đã triển khai, thì cần triển khai mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn trong 6 tháng cuối năm, để đáp ứng mục tiêu giải ngân được tối thiểu 95% tổng kế hoạch vốn được Thủ tướng Chính phủ được giao.
Về khả năng giải ngân kế hoạch vốn được giao: Từ năm 2021 đến nay, hầu hết tiến độ giải ngân của các năm gần đây cơ bản đạt hơn 90%. Đó là cơ sở để chúng ta có niềm tin từ nay đến cuối năm đạt mục tiêu của Thủ tướng Chính phủ đề ra. Đồng thời, dưới sự đôn đốc của Thủ tướng Chính phủ, rất nhiều dự án lớn, dự án trọng điểm về giao thông đã được khởi công. Đây là tín hiệu tốt. Khi bắt đầu khởi công một dự án, toàn bộ phần tiền giải ngân giai đoạn đầu của dự án tập trung vào giải phóng mặt bằng. Giải phóng mặt bằng có lượng vốn lớn sẽ được giải ngân ngay lập tức, không phụ thuộc vào tiến độ thi công, để có thể trả ngay cho người dân, giúp cho khối lượng giải ngân vốn đầu tư công đạt kết quả khá hơn.
Bên cạnh đó, cần phải nhắc đến điểm thuận lợi là kỳ họp Quốc hội vừa qua đã quyết nghị tháo gỡ cho giải ngân vốn đầu tư công cũng như cho phép tiếp tục giao nguồn vốn trung hạn vào các dự án chương trình phục hồi phát triển kinh tế-xã hội. Từ đó sẽ tạo điều kiện có thêm dự án để có thể triển khai từ giờ đến cuối năm. Hơn nữa, Quốc hội cho phép điều hòa linh hoạt giữa nguồn vốn của chương trình phục hồi và các dự án kế hoạch đầu tư trung hạn, để đáp ứng yêu cầu Nghị quyết 43, phấn đấu giải ngân hết trong năm 2023 đúng theo yêu cầu của Quốc hội.
Đó là những điểm thuận lợi để chúng ta hoàn tin tưởng vào sự điều hành của Chính phủ.