Xác nhận với PLO, NSƯT Trần Lực cho biết bố ông, Giáo sư, NSND Trần Bảng đã qua đời ở tuổi 98 vào 6h sáng nay 19-7 tại bệnh viện Quân đội 108.
“Lúc đầu, ông bị ngã phải thay khớp đùi và ca phẫu thuật đã thành công, ông chuẩn bị tập luyện để đi lại, thế nhưng bất ngờ ông bị viêm phổi chỉ sau hai ngày phẫu thuật và ông đi rất nhanh” – NSƯT Trần Lực chia sẻ.
Nhà giáo, NSND Trần Bảng (1926-2023). Ảnh: FB NSƯT Trần Lực |
Giáo sư, NSND Trần Bảng sinh năm 1926 tại Hải Phòng. Ông là đạo diễn, soạn giả và cũng là một nhà nghiên cứu nghệ thuật chèo.
Ông là con trai nhà văn Trần Tiêu và cháu gọi nhà văn Khái Hưng là bác ruột. Ngay từ nhỏ ông đã say mê văn chương, kịch nghệ nước ngoài. Hai mươi tuổi, ông đã đọc được sách Hán Nôm, thông thạo tiếng Pháp và biết tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga.
Sau Cách mạng tháng 8, ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1951, ông tham gia vào Đoàn Văn công Trung ương, cùng tổ kịch với Thế Lữ, Song Kim, Nguyễn Hoài... Ở đây, ông bắt đầu đến với nghệ thuật chèo.
Năm 1957, ông cùng Bùi Đức Hạnh, Hoàng Kiều, Hà Văn Cầu, Hồ Ngọc Cẩn và các nghệ nhân Trùm Thịnh, Cả Tam, Lý Mầm, Năm Ngũ thành lập Ban nghiên cứu chèo.
Tại ban nghiên cứu, ông đã khai thác, bảo tồn các vở chèo cổ, lưu giữ các lớp trò của các nghệ nhân. Từ những nghiên cứu đó, ông đã cải biên, xây dựng lại nhiều vở chèo cổ như Quan Âm Thị Kính, Suý Vân (từ vở Kim Nham), Nàng Thiệt Thê (từ vở Chu Mãi Thần)...
Hình ảnh Nhà giáo, NSND Trần Bảng và con cháu hồi tháng 5. Ảnh: FB NSƯT Trần Lực |
Riêng với vở Quan Âm Thị Kính đã được ông dàn dựng lại 3 lần (1956, 1968, 1985). Với những vở diễn này, ông đã đóng góp đáng kể trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo cổ, đưa chèo cổ sống lại trên sân khấu chèo hiện đại. Ngoài ra, ông còn dàn dựng nhiều vở chèo hiện đại như Lọ nước thần, Tình rừng, Cờ giải phóng, Đường đi đôi ngả, Máu chúng ta đã chảy...
Ông đã đạt Huy Chương Vàng tại Hội diễn Sân khấu toàn quốc năm 1962 cho vở chèo Suý Vân.
Ngoài công việc đạo diễn, ông còn viết nhiều kịch bản chèo như Con trâu hai nhà, Đường đi đôi ngả, Cô gái và anh đô vật, Tình rừng, Chuyện tình 80 năm, Máu chúng ta đã chảy...
Ngoài ra, ông còn viết một số sách nghiên cứu về chèo như Khái luận về Chèo, Kỹ thuật biểu diễn Chèo, Chèo - Một hiện tượng Sân khấu dân tộc...
Ông đã đoạt Giải thưởng nghiên cứu của Hội nghệ sĩ Việt Nam năm 1995, Giải thưởng văn học đề tài công nhân của Tổng Công đoàn Việt Nam 1974 (kịch bản chèo Tình rừng).
Ông cũng đã từng giữ chức Giám đốc Nhà hát Chèo Trung ương, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật Sân khấu Bộ Văn hoá-Thông tin, Phó Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam khoá I (1957).
Ông được nhận học hàm Giáo sư và danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân (1993). Năm 2001, ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông còn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Ông kết hôn với NSƯT Trần Thị Xuân, cũng là một diễn viên chèo. Hai người con của ông là đạo diễn, NSƯT Trần Lực và họa sĩ, kiến trúc sư Trần Thị Mây.
Ông được nhận Giải thưởng Nhà nước đợt II (2001) và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật đợt 5 (2017).