Theo dự báo của Bloomberg Economics, nếu Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thực hiện những cải cách những thúc đẩy tăng trưởng và người đồng cấp của ông là Tổng thống Mỹ Joe Biden không thể thúc đẩy các đề xuất đổi mới cơ sở hạ tầng và tăng cường lực lượng lao động thì Trung Quốc có thể sẽ trở thành siêu cường số 1 thế giới, sớm nhất là vào năm 2031.
Song, tham vọng đó sẽ chưa thể thành hiện thực. Chương trình cải cách của Trung Quốc hiện đang bị trì hoãn, thuế quan và các biện pháp hạn chế về thương mại khác đang cản trở khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu và các công nghệ tiên tiến của quốc gia này. Đồng thời, biện pháp kích thích hỗ trợ nền kinh tế trong thời kỳ đại dịch đã nâng mức nợ lên cao kỷ lục.
Một kịch bản đầy bi quan đối với ông Tập là Trung Quốc sẽ đi theo quỹ đạo tương tự như Nhật Bản – cũng từng là đối thủ sừng sỏ với Mỹ trước khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng 3 thập kỷ trước. Cùng với những vấn đề trong cải cách, sự cô lập về kinh tế và khủng hoảng tài chính, Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn trước khi tiến đến đỉnh cao.
Một khả năng khác được nhóm có quan điểm hoài nghi chú ý đó là, nếu số liệu GDP chính thức của Trung Quốc đã bị phóng đại, thì khoảng cách giữa nền kinh tế lớn thứ nhất và thứ hai thế giới có thể lớn hơn những gì đang được thể hiện và việc rút ngắn sẽ diễn ra với tốc độ chậm chạp hơn.
Những yếu tố quyết định
Trong bài phân tích này, các chuyên gia Bloomberg sẽ đề cập đến GDP danh nghĩa tính bằng USD – được nhiều người coi là thước đo về sức mạnh kinh tế hiệu quả nhất. Với tiêu chí Sức mua tương đương (PPP) – tính đến sự khác biệt về chi phí sinh hoạt và thường được sử dụng để đánh giá chất lượng cuộc sống, Trung Quốc ở vị trí đầu bảng.
Về lâu dài, có 3 yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Đầu tiên là quy mô của lực lượng lao động. Sau đó là nguồn vốn – mọi thứ từ nhà máy cho đến cơ sở hạ tầng giao thông và mạng lưới liên lạc. Cuối cùng là năng suất hoặc mức độ hiệu quả của sự kết hợp 2 yếu tố trên. Trong mỗi tiêu chí này, Trung Quốc đều đối diện với tương lai không chắc chắn.
Thứ nhất là lực lượng lao động. Đây là phép toán rất đơn giản: nhiều lao động hơn đồng nghĩa với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ hơn và ít lao động có nghĩa là tăng trưởng chậm. Đây là thách thức đầu tiên đối với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Tỷ lệ sinh thấp có nghĩa là dân số trong độ tuổi lao động của Trung Quốc đã đạt đến mức đỉnh. Nếu tỷ lệ sinh vẫn tiếp tục giữ xu hướng này, số người lao động dự kiến sẽ giảm hơn 260 triệu người trong 3 thập kỷ tới, tương đương 28%.
Nhận thức được những rủi ro này, Trung Quốc đã thay đổi hướng đi. Thời gian gần đây, các biện pháp kiểm soát về việc sinh đẻ đã được nới lỏng. Năm 2016, giới chức nước này khuyến khích mỗi gia đình sinh 2 con. Còn trong năm nay, Bắc Kinh thông báo cho phép mỗi gia đình có 3 con. Trong khi đó, kế hoạch tăng tuổi nghỉ hưu có thể giữ giúp người lao động lớn tuổi làm việc lâu hơn.
Tuy nhiên, theo Bloomberg, ngay cả khi cải cách thành công, Trung Quốc sẽ khó có thể bù đắp được tác động từ sự cản trở của vấn đề nhân khẩu học. Bởi vậy, họ có thể sẽ không thành công. Trong khi giới chức khuyến khích sinh thêm con, thì các cặp vợ chồng lại có quan điểm ngược lại. Họ cho rằng nuôi con cực kỳ tốn kém, chi phí cho giáo dục và nhà ở là cực kỳ cao.
Trong khi đó, triển vọng về chi tiêu vốn tại Trung Quốc lại không quá ảm đạm. Số lượng đường sắt, nhà máy hoặc tháp 5G dự kiến sẽ không sụt giảm. Song, sau nhiều năm đầu tư tăng chóng mặt, có rất nhiều dấu hiệu cho thấy lợi nhuận từ các hoạt động này đang giảm dần. Tình trạng dư thừa công suất, những thị trấn ma với nhiều tòa nhà bị bỏ trống và cao tốc 6 làn xe dẫn đến những khu đất nông nghiệp thưa dân cư đều là minh chứng cho vấn đề này.
Khi lực lượng lao động được dự báo sẽ sụt giảm và chi tiêu vốn đã ở mức quá cao, thì năng suất chính là chìa khóa cho tăng trưởng tương lai của Trung Quốc. Hầu hết các nhà kinh tế phương Tây đều cho rằng việc thúc đẩy tăng trưởng đòi hỏi những hành động như hủy bỏ hệ thống "hukou" lỗi thời, tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các công ty quốc doanh và tư nhân, cùng với đó là giảm bớt rào cản cho các công ty nước ngoài trong việc tiếp cận với nền kinh tế và hệ thống tài chính.
Khi hiệu quả của việc kết hợp lao động và chi tiêu vốn của Trung Quốc chỉ bằng khoảng 50% so với Mỹ, thì quốc gia này vẫn còn nhiều cơ hội để cải thiện. Bloomberg Economics dự đoán, năm 2050, năng suất của Trung Quốc sẽ đạt tới mức 70% của Mỹ, đưa đại lục trở thành quốc gia có trình độ phát triển tương đương.
Khủng hoảng tài chính có thể diễn ra?
Liệu Trung Quốc có thể thực hiện lời cam kết – thúc đẩy tăng trưởng như không phải với việc mở rộng lực lượng lao động và đầu tư không ngừng, mà với lao động tay nghề cao và công nghệ hiện đại hơn hay không? Thật không may, không phải mọi yếu tố quyết định đều nằm trong tầm kiểm soát của họ.
Nếu mối quan hệ với Mỹ cùng các đồng minh tiếp tục căng thẳng, thì những ý tưởng và sự đổi mới xuyên biên giới nhằm thúc đẩy sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ bắt đầu đuối sức. Bắc Kinh đã nhận thấy một dấu hiệu như vậy: châu Âu đang lùi bước khỏi một thỏa thuận đầu tư lớn và Ấn Độ đã hạn chế nhập khẩu các thiết bị điện tử Trung Quốc.
Ngoài ra, sự đình trệ khi triển khai các cải cách trong nước cộng với tình trạng cô lập với quốc tế có thể dẫn đến một kịch bản cực đoan khác đó là khủng hoảng tài chính. Kể từ năm 2008, tỷ lệ tín dụng/GDP của Trung Quốc đã tăng vọt từ 140% lên 290%, yếu tố mạnh mẽ nhất là các biện pháp kích thích trong đại dịch.
Dựa theo nghiên cứu của Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff về các cuộc khủng hoảng tài chính, Bloomberg Economics ước tính rằng, một cuộc khủng hoảng kiểu Lehman có thể đẩy Trung Quốc vào cuộc suy thoái sâu sắc, sau đó là một thập kỷ mất mát với mức tăng trưởng gần bằng 0.
Ngoài ra, các con số tăng trưởng chính thức của Trung Quốc cũng gây ra nhiều nghi ngờ. Các nhà lãnh đạo của quốc gia này đã thừa nhận về vấn đề này. Thủ tướng Lý Khắc Cường từng nói: "Số liệu GDP là do con người tạo ra". Để có con số đáng tin cậy hơn, ông thường cân nhắc các con số khác như sản lượng điện, cước vân chuyển đường sắt và các khoản vay ngân hàng.
Một nghiên cứu của các nhà kinh tế tại Đại học Trung Văn Hương Cảng và Đại học Chicago cho thấy rằng, từ năm 2010 đến 2016, tăng trưởng GDP "thực" của Trung Quốc thấp hơn khoảng 1,8 điểm phần trăm so với dữ liệu chính thức được công bố. Do đó, nếu Trung Quốc đang trên đà tăng trưởng chậm hơn thì việc vượt qua Mỹ sẽ trở nên khó khăn hơn.
Đối với Mỹ và cả Trung Quốc, con đường để tăng trưởng nhanh hơn là mở rộng lực lượng lao động, nâng cấp nguồn vốn và đổi mới công nghệ. Chính quyền ông Biden đã chi hàng nghìn tỷ USD để thực kế hoạch đó. Khi thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, Mỹ có thể trì hoãn sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc.
Kết quả của tham vọng trở thành siêu cường số 1 thế giới
Tổng hợp tất cả các yếu tố này, Bloomberg Economics đã xây dựng các kịch bản cho kết quả của cuộc đua kinh tế Mỹ-Trung. Nếu thuận lợi cho Trung Quốc, thì quốc gia này có thể đuổi kịp Mỹ trong đầu thập kỷ tới và sau đó là giữ khoảng cách xa. Tuy nhiên, trong trường hợp những biện pháp cải cách bị đình trệ, lực lượng lao động sụt giảm và khủng hoảng tài chính xảy ra, Trung Quốc có thể sẽ mãi mãi ở vị trí số 2.
Tham khảo Bloomberg