Ngoài Thủ tướng Đức và Tổng thống Pháp, bài viết có sự tham gia của Tổng Thư ký Liên hợp quốc (LHQ) Antonio Guterres, Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC) Ursula von der Leyen, Chủ tịch Hội đồng Liên minh châu Âu (EU) Charles Michel và Tổng thống Senegal Macky Sall.
Các chính trị gia đánh giá, trong hơn một năm, đại dịch COVID-19 đã làm suy yếu nền kinh tế và tâm lý. Cuộc khủng hoảng có thể là cơ hội “để lấy lại sự đồng thuận về một trật tự quốc tế thông qua hợp tác, đoàn kết và phối hợp hiệu quả”. Họ viết rằng, việc tổ chức lại chính trị quốc tế phải dựa trên “chủ nghĩa đa phương và pháp quyền”, không chỉ vì đại dịch COVID-19 đòi hỏi một “phản ứng mạnh mẽ và phối hợp quốc tế”. Bài học cho những cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai phải được rút ra từ tình hình hiện tại.
Ngoài ra, các vấn đề như biến đổi khí hậu chỉ có thể được giải quyết trên toàn cầu. Các chính trị gia tuyên bố rằng, trong việc đối phó với vô số thách thức toàn cầu, chủ nghĩa đa phương dựa trên “hợp tác, pháp quyền, hành động tập thể và các nguyên tắc chung”. Các chính trị gia lên tiếng kêu gọi, thay vì riêng lẻ, các quốc gia phải xây dựng một chủ nghĩa đa phương tích cực hơn. Để làm được điều này, các bên cần phải tôn trọng những khác biệt cũng như các giá trị chung.
Khủng hoảng COVID-19 là cơ hội sắp xếp lại trật tự thế giới. Ảnh minh họa |
Trong khi đó, giới chuyên gia chỉ ra rằng, không chỉ sau Chiến tranh Lạnh, khái niệm trật tự đa cực đã trở nên nổi bật hơn trong bối cảnh cộng đồng quốc tế phải vật lộn với COVID-19. Đại dịch trở thành mối đe dọa trên nhiều phương diện, từ một cuộc khủng hoảng y tế và kinh tế-xã hội cho tới khủng hoảng chính trị và an ninh khi các quốc gia trở nên “vị kỷ” hơn, ưu tiên lựa chọn chính sách dân túy và dân tộc chủ nghĩa.
Từ khi đại dịch bùng phát một năm trước, những lời kêu gọi đoàn kết trên toàn cầu và các nỗ lực đa phương sâu sắc hơn để chống lại đại dịch đã có được động lực mạnh mẽ. Giới lãnh đạo chính trị ở châu Á đã cùng với cộng đồng quốc tế nhấn mạnh tầm quan trọng của hành động tập thể nhằm chống lại mối đe dọa chung, song hợp tác đa phương trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được những kỳ vọng.
Sự thiếu vắng vai trò lãnh đạo toàn cầu trong bối cảnh sự cạnh tranh giữa các cường quốc gia tăng càng củng cố lập trường lợi ích cá nhân thay vì thúc đẩy hợp tác. Trong khi đó, sự cứng nhắc của các thể chế đa phương quốc tế không còn phù hợp với mục đích giải quyết những thách thức về kinh tế và an ninh trong thế kỷ XXI.
Mặc dù vậy, hồi phục hệ thống đa phương vẫn là cách duy nhất để cộng đồng quốc tế ứng phó với các mối đe dọa xuyên quốc gia như biến đổi khí hậu và đại dịch. Nhiều thay đổi trong trật tự đa cực đã định hình các mối quan hệ kinh tế và chính trị quốc tế thời hậu Chiến tranh Lạnh.
Trong khi chính trị quốc tế vẫn chịu ảnh hưởng từ sự cạnh tranh giữa các siêu cường - lần này là giữa Mỹ và Trung Quốc, các “cực” quyền lực và ảnh hưởng mới đã xuất hiện khi EU và các nền kinh tế mới nổi như Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi (BRICS) ngày càng có nhiều sức nặng về kinh tế. Quy mô ảnh hưởng của các cực này đối với trật tự kinh tế quốc tế phụ thuộc vào mức độ gắn kết lợi ích trong những thay đổi của chương trình nghị sự kinh tế toàn cầu. Lấy ví dụ, BRICS đã thúc đẩy cải cách các thể chế như trong Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để giành được nhiều quyền biểu quyết hơn, song kết quả thu về cho đến nay vẫn khá hạn chế.
Việc Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) mở rộng thành Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) là một dấu hiệu khác cho thấy sự phân bổ lại lợi ích giữa một nhóm đa dạng các nhân tố với cùng mục tiêu định hình cấu trúc kinh tế mới. Những thay đổi này đã dẫn đến khái niệm về một thế giới “G-Zero”, một thế giới “vô cực” - nơi không quốc gia hoặc khối quốc gia nào nắm quyền lực chính trị và kinh tế để thao túng chương trình nghị sự quốc tế.
Các khu vực ngày càng đóng vai trò quan trọng nhờ lợi ích giao thoa và tương thuộc của các hiệp định thương mại tự do (FTA), như các hiệp định lớn của châu Á là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Dù Nhật Bản và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đều là những nhân tố đi đầu trong CPTPP và RCEP, lợi ích khác nhau của các quốc gia thành viên đồng nghĩa với thực tế mỗi khối lại có những mục tiêu khác nhau.
Những vấn đề về sự gắn kết và bất đồng trong lợi ích có thể được giảm thiểu nếu các thể chế đa phương - dù cạnh tranh - vẫn có thể tập trung nỗ lực hướng tới mục tiêu chung, đặc biệt trong việc giải quyết các mối đe dọa toàn cầu như y tế, môi trường và an ninh lương thực. Động lực thúc đẩy một trật tự đa phương không bị giới hạn bởi những liên minh gồm các nhân tố có chung chí hướng hay sự phổ biến các dàn xếp thương mại đa phương.
Ảnh hưởng ngày càng tăng của các công ty công nghệ lớn như Google và Facebook, những “gã khổng lồ” có khả năng thay đổi luật chơi - đặc biệt là với sự thống trị trên thị trường toàn cầu và khả năng tận dụng những kẻ hở của khuôn khổ pháp lý, là điều không nên bỏ qua. Các quỹ tư nhân, như Quỹ Bill và Melinda Gates, đã đóng góp đáng kể vào cuộc chiến chống lại các bệnh truyền nhiễm như lao, sốt rét và HIV/AIDS, hay thậm chí là đi đầu trong hoạt động nghiên cứu vaccine và phương pháp điều trị COVID-19.
Sự phức tạp của các vấn đề xuyên quốc gia mà thế giới ngày nay đang phải đối mặt cho thấy mức độ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ của các quốc gia và xã hội. Những thách thức này đang tái định hình một trật tự đa cực đa dạng hơn nhưng kết nối nhiều hơn, với ngày càng nhiều các lực lượng có ảnh hưởng tới quản trị toàn cầu.
Trong một thế giới như vậy, các thể chế khu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác và chủ nghĩa đa phương. Các tổ chức xã hội dân sự và các tổ chức tư nhân cũng có một vai trò quan trọng, cùng nhau gợi mở nhiều hơn những con đường dẫn tới phát triển, hòa bình và an ninh.Xem thêm: /558846-ioig-eht-ut-tart-ial-pex-pas-ioh-oC/et-couq-naul-hniB/nv.moc.dnac