Số trước, Pháp Luật TP.HCM giới thiệu góp ý của chuyên gia về sự cần thiết của việc thay thế các văn bản pháp lý, tạo cơ sở thực thi phù hợp với chiến lược chống dịch mới để vừa phòng chống dịch có hiệu quả, vừa khôi phục, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Số báo hôm nay, chúng tôi xin tiếp tục ghi nhận những ý kiến đóng góp xung quanh vấn đề này.
TS PHAN ANH TUẤN, Trưởng bộ môn Luật hình sự Trường ĐH Luật TP.HCM:
Ba vấn đề pháp lý cần thực hiện
TS Phan Anh Tuấn, Trưởng bộ môn Luật hình sự Trường ĐH Luật TP.HCM
Cơ sở để xây dựng các văn bản pháp luật phù hợp với chiến lược để thích ứng an toàn với đại dịch COVID-19 tại Việt Nam đó chính là cơ sở khoa học về y học trong kiểm soát dịch bệnh và năng lực xử lý phòng dịch của từng địa phương.
(1) Tính linh hoạt về giai đoạn: Tại mỗi giai đoạn cụ thể, Chính phủ cần xác định mục tiêu chung của cả nước là gì để từ đó các địa phương có sự chủ động thực hiện thống nhất chính sách chung của cả nước.
Việc quy định cứng về phòng dịch là không nên mà cần thiết kế các gói quy định để áp dụng linh hoạt. Thiết kế vừa có thể nhanh chóng tiến (quy định nới lỏng) và có thể lùi (quy định chặt chẽ hơn).
Nhiệm vụ hiện nay là cần xác định các quy định (tiêu chí) áp dụng bắt buộc trong mọi thời điểm, mọi địa phương, ngành nghề... là như thế nào để phòng chống dịch hiệu quả và tiêu chí bổ sung trong từng giai đoạn.
Cần hết sức lưu ý, Quốc hội chỉ cho phép Chính phủ ban hành nghị quyết có một số nội dung khác với quy định của luật để đáp ứng yêu cầu phòng chống dịch phù hợp với tình hình thực tiễn chứ không cho phép các cơ quan khác được phép làm điều này.
(2) Tính đa dạng về lĩnh vực cần ưu tiên: Công tác phòng chống dịch của Chính phủ phải đảm bảo sự phát triển tổng thể của đất nước ở tất cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội… chứ không chỉ chăm chăm vào kinh tế - mặc dù tháo gỡ khó khăn về kinh tế là rất bức thiết hiện nay.
Các quy định tiêu chuẩn phòng chống dịch (bắt buộc hay không, tiêu chuẩn thế nào...) cần đảm bảo sự cân bằng giữa các nhóm lợi ích trong xã hội. Không chỉ vì lợi ích kinh tế của một số doanh nghiệp nhưng gây thiệt hại lớn cho xã hội.
Người dân vùng xanh ở quận 7, TP.HCM khi đã tiêm đủ liều vaccine được phép đi mua lương thực một lần/tuần. Ảnh: HOÀNG GIANG
Việc đặt ra tiêu chuẩn tối thiểu để tham gia các hoạt động công cộng, sản xuất, làm việc… làm cơ sở để tất cả thành phần xã hội phải tuân theo là yêu cầu bắt buộc. Ai không đảm bảo thì có thể tham gia khi có sự cho phép của cấp có thẩm quyền và với những điều kiện nhất định.
(3) Công tác áp dụng pháp luật: Pháp luật về phòng chống dịch không thể quy định chi tiết mà chỉ ở dạng nguyên tắc chung, chẳng hạn: Vi phạm quy định về cách ly y tế, vi phạm quy định về áp dụng các biện pháp phòng chống dịch… Đây là các quy định có tính viện dẫn.
Do đó, để xác định một hành vi vi phạm về phòng chống dịch cần xác định hành vi đó tại thời gian và địa điểm cụ thể - không thể quy định cứng - bởi từng địa phương vào cùng một thời điểm có những cách ứng phó khác nhau trong công tác phòng chống dịch.
Cần nhấn mạnh sự thay đổi các quy định hoặc áp dụng các quy định tại từng giai đoạn cụ thể, từng địa phương, ngành nghề… trong giai đoạn bình thường mới là bắt buộc.
ThS HUỲNH THỊ NAM HẢI, giảng viên Khoa luật Trường ĐH Kinh tế - Luật TP.HCM:
Cần luật hóa các quy định
ThS Huỳnh Thị Nam Hải, giảng viên Khoa luật Trường ĐH Kinh tế - Luật TP.HCM
Trước tình hình diễn biến hết sức phức tạp của dịch bệnh, với sự đồng ý của Quốc hội, trong thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản mang tính chất chỉ đạo, điều hành nhằm kịp thời giải quyết những vấn đề trọng tâm.
Tuy nhiên, với sự thay đổi quan điểm chống dịch chuyển từ mục tiêu zero COVID sang thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh thì nhiều nội dung trong các văn bản cũ đã không còn phù hợp.
Việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) mới làm cơ sở thực hiện công tác phòng chống dịch là hết sức cần thiết và cấp bách.
Theo tôi, cần làm những việc sau:
(1) Ban hành văn bản quy định tiêu chuẩn, điều kiện về thẻ xanh COVID để người có đủ điều kiện nhanh chóng trở lại tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh… Quá trình thực hiện cần tham khảo cách làm hay từ các nước.
(2) Ban hành VBQPPL về phòng chống dịch để làm cơ sở áp dụng thống nhất trên cả nước, tránh tình trạng các địa phương ban hành văn bản mâu thuẫn, chồng chéo gây khó khăn cho người dân.
(3) Cần đưa các quy định liên quan đến việc điều trị như chi phí khám chữa bệnh cho bệnh nhân COVID-19 vào Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm, Luật Khám bệnh, chữa bệnh…
(4) Mở rộng chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Mặc dù hiện nay Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ những trường hợp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh nhưng phạm vi đối tượng được hỗ trợ chưa bao phủ.
Có thể thấy rằng dịch bệnh kéo dài, hầu hết người dân, doanh nghiệp ít nhiều đều gặp khó khăn (chi phí sinh hoạt tăng, chi phí vận chuyển tăng, chi phí y tế…) nên ngoài những chính sách hỗ trợ trong thời gian qua thì cần có chính sách miễn, giảm các loại thuế, phí nhằm nuôi dưỡng nguồn thu như miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân, phí cầu đường…
Thủ tướng nên ban hành quyết định Tôi cho rằng rất cần sự thay đổi về khung pháp lý làm cơ sở cho việc thực thi chiến lược chống dịch trong giai đoạn mới. Về hình thức, Thủ tướng hoặc Chính phủ cần ban hành VBQPPL có tính ràng buộc pháp lý. Về nội dung, văn bản này cần nêu rõ các vấn đề trọng tâm sau đây: (1) Mục tiêu chống dịch, trong đó khẳng định rõ quan điểm chuyển trạng thái từ mục tiêu zero COVID sang thích ứng an toàn, linh hoạt và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19 để vừa phòng chống dịch có hiệu quả vừa khôi phục, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. (2) Minh định rõ nhiệm vụ của từng bộ, ngành trong giai đoạn chống dịch mới: Làm gì, làm như thế nào, phối hợp với các địa phương ra sao… (3) Nêu rõ sự phân vùng của các địa phương; địa phương này được làm cái gì, cách thức ra sao; phối hợp với bộ, ngành thế nào; được tự chủ ban hành các quyết định phù hợp với tình hình dịch bệnh ở địa phương mình đến đâu… (4) Xác định rõ các tỉnh, thành được áp dụng cơ chế đặc thù. ThS LƯU ĐỨC QUANG, giảng viên Khoa luật Trường ĐH Kinh tế - Luật TP.HCM |