Điện gió, điện mặt trời phát triển quá nhanh, lưới điện không theo kịp
Lan Nhi
(TBKTSG Online)- Gần 23.000 MW năng lượng tái tạo (NLTT) đã được phê duyệt tính đến tháng 8 vừa qua. Cùng với nó là cuộc chạy đua nước rút của Tập đoàn điện lực (EVN) để giải tỏa công suất. Tuy nhiên, giữa mong muốn bán nhanh được NLTT để hưởng cơ chế giá điện ưu đãi (giá FIT) và giải tỏa được công suất lại khó đi đôi với nhau.
Các dự án NLTT đi vào vận hành với tốc độ quá nhanh, gây khó cho việc đầu tư truyền tải. Ảnh: TL |
Sau khi Thủ tướng ban hành cơ chế khuyến khích phát triển các nguồn điện NLTT, nhiều nhà đầu tư đã tích cực tham gia nghiên cứu và đề xuất đầu tư các dự án nguồn điện NLTT. Tính đến cuối tháng 8-2020, tổng công suất các nguồn điện gió và điện mặt trời đã được phê duyệt bổ sung qui hoạch gần 23.000 MW (trong đó điện mặt trời khoảng 11.200MW; điện gió khoảng 11.800 MW).
Để hỗ trợ và tạo điều kiện cho các chủ đầu tư điện mặt trời hoà lưới, kịp thời hưởng cơ chế ưu đãi của Chính phủ, EVN đã chỉ đạo các đơn vị thành viên tăng cường tối đa nhân lực để hỗ trợ cho các chủ đầu tư công tác đấu nối lưới điện, kết nối hệ thống SCADA, thử nghiệm tấm pin và toàn hệ thống ĐMT của các nhà đầu tư.
Đến nay, cả nước đã đưa vào vận hành 102 dự án điện mặt trời với tổng công suất 6.314 MWp (tương đương 5.245 MW). Trong đó, riêng trong quí 2-2019 có gần 90 dự án điện mặt trời với tổng công suất khoảng 4.000 MWp được đưa vào vận hành. “Đây là khối lượng công việc kỷ lục trong quá trình phát triển của ngành điện Việt Nam và số lượng nhà máy được đưa vào vận hành cũng là kỷ lục từ trước đến nay”, một lãnh đạo EVN cho biết.
Do các nguồn điện NLTT được đưa vào vận hành đồng loạt trong một thời gian rất ngắn và tập trung mật độ lớn tại các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận nên xuất hiện tình trạng quá tải cục bộ lưới điện vào thời điểm các dự án điện mặt trời phát công suất cao đồng thời. Để khắc phục tình trạng quá tải lưới điện khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận, EVN và các công ty con tìm mọi giải pháp trong đầu tư xây dựng để đẩy nhanh tiến độ các công trình lưới điện phục vụ giải tỏa công suất các nguồn điện NLTT.
Hiện đã có 21 công trình lưới điện từ 110 kV đến 500 kV đã đưa vào vận hành phục vụ giải tỏa các nguồn điện NLTT với tổng chiều dài đường dây trên 750 km và các trạm biến áp tổng dung lượng 5.025 MVA, trong đó đã hoàn thành vượt tiến độ một số công trình trọng điểm, như nâng công suất các trạm 500kV Vĩnh Tân, Di Linh; nâng công suất các trạm 220 kV Tháp Chàm, Hàm Tân; hoàn thành đưa vào vận hành các trạm 220 kV mới như Ninh Phước, Phan Rí; đầu tư mới và cải tạo nâng cấp các tuyến đường dây 110kV trong khu vực.
Mặc dù công tác đầu tư xây dựng gặp rất nhiều khó khăn thách thức do tác động ảnh hưởng của dịch Covid-19, song đến nay hạ tầng lưới điện truyền tải đã cơ bản đáp ứng giải toả hết công suất của 113 dự án điện mặt trời, điện gió đã đưa vào vận hành với tổng công suất trên 5.700 MW (bao gồm cả các dự án vận hành trước 30-6-2019 và các dự án mới được đưa vào vận hành trong năm 2020.
Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều dự án nguồn điện năng lượng tái tạo đã được bổ sung quy hoạch với tổng công suất hơn 17.000 MW và trong đó có nhiều dự án đang được các chủ đầu tư gấp rút triển khai để được hưởng cơ chế giá điện FIT áp dụng cho các dự án điện mặt trời đưa vào vận hành thương mại đến hết ngày 31-12-2020 và cơ chế giá điện FIT áp dụng cho các dự án điện gió đưa vào vận hành thương mại trước tháng 11-2021. Vì vậy, dự kiến sẽ có nhiều dự án điện gió và điện mặt trời tiếp tục được đưa vào vận hành trong thời gian tới.
Để đáp ứng giải tỏa công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo, EVN đã khẩn trương báo cáo các cấp có thẩm quyền để đề xuất điều chỉnh, bổ sung qui hoạch các công trình lưới điện truyền tải có liên quan tại các khu vực. Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng các công trình lưới điện mới này sẽ khó đáp ứng tiến độ đồng bộ với các công trình điện gió, mặt trời, đặc biệt trường hợp các chủ đầu tư sẽ cố gắng đưa vào vận hành thương mại để được hưởng cơ chế giá điện FIT hiện hành.
Các dự án đầu tư nguồn phát điện chủ yếu theo cơ chế độc lập (IPP), tư nhân tham gia đầu tư lớn để hưởng ưu đãi và có các hợp đồng bán điện cho cả đời dự án. Nhưng việc đầu tư lưới điện lại thuộc về nhà nước độc quyền. Tổng công ty truyền tải điện lập các dự án đầu tư, qua phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi mới được thi công.
Nhanh nhất, thời gian thẩm định, phê duyệt dự án kéo dài nửa năm đến một năm, sau đó còn kéo theo những khó khăn do giải phóng mặt bằng, thiết kế kỹ thuật. Các ngân hàng thương mại rất e dè với các dự án đầu tư vào truyền tải khi thẩm định các hồ sơ vay vốn do đầu tư vào truyền tải thời gian đầu tư kéo dài, nhiều rủi ro và không đem lại hiệu quả nhanh như các dự án đầu tư vào nguồn phát.
Do đó, từ năm 2017 đến nay, khi Chính phủ ngừng cấp bảo lãnh vay vốn cho các dự án đầu tư lớn liên quan đến điện, xăng dầu, hàng không, chỉ có các dự án truyền tải điện duy nhất được Chính phủ bảo lãnh vay vốn hoặc vay lại vốn vay nước ngoài.