Đây là kết quả phản ánh bước đầu về tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, khi nền kinh tế thế giới tăng trưởng thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án tại nước ngoài bị ảnh hưởng lớn.
Kết quả này và tình hình đầu tư vốn ra nước ngoài của Việt Nam vừa được Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cập nhật trong báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tai doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2020 gửi Quốc hội.
HƠN 6,7 TỶ USD VỐN ĐẦU TƯ
Theo báo cáo, tính đến ngày 31/12/2020, 28 doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước (không bao gồm các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước) thuộc 4 bộ (Quốc phòng, Xây dựng, Công Thương, Y tế), Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và 4 tỉnh (Hà Tĩnh, Đắk Lắk, An Giang, TP.HCM) thực hiện 131 dự án đầu tư ra nước ngoài.
Riêng trong năm 2020 phát sinh mới 01 dự án đầu tư tại Lào của Tổng công ty Hợp tác kinh tế/QK4 thuộc Bộ Quốc phòng.
Số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện trong năm 2020 của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước là 129,92 triệu USD, chủ yếu tại các dự án của các công ty con của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); các dự án của Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), dự án của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông ( VNPT ), dự án của Tập đoàn công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel)...
Lũy kế đến ngày 31/12/2020, tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước là 6.719,05 triệu USD (bằng 50% số vốn đăng ký).
Trong quy mô trên, PVN có số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện lớn nhất, là 3.973,52 triệu USD, chiếm 59% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện; tiếp theo là Viettel với 1.454,9 triệu USD chiếm 22%; VRG đứng thứ ba với 925,8 triệu USD, chiếm 14%; tổng số vốn đã đầu tư ra nước ngoài của 03 doanh nghiệp này chiếm 95% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của khối doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Về lĩnh vực đầu tư, các dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp chủ yếu trong các lĩnh vực: dầu khí; viễn thông; trồng, chế biến cây cao su; khai thác khoáng sản; nông nghiệp; xây lắp, thương mại, vận tải hàng không... Trong đó, xét về số lượng dự án: lĩnh vực trồng, chế biến cao su đứng đầu với 33 dự án, lĩnh vực viễn thông đứng thứ hai với 32 dự án, lĩnh vực dầu khí đứng thứ ba với 31 dự án.
Về địa bàn đầu tư, có 26 quốc gia nhận đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước.
Xét về số lượng dự án thì lớn nhất là Campuchia với 41 dự án, đứng thứ hai là Lào với 32 dự án, tiếp theo là Malaysia 9 dự án, Singapore 8 dự án, Nga và Myanmar cùng 5 dự án, Peru 4 dự án...
Xét về tổng vốn đầu tư thực hiện lũy kế đến 31/12/2020, Campuchia đứng đầu với 1.002,45 triệu USD (chiếm 15% tổng số vốn đầu tư lũy kế thực hiện), Peru đứng thứ hai với 1.002,18 triệu USD (chiếm 15%), Malaysia đứng thứ ba với 963,96 triệu USD (chiếm 14%), tiếp theo là Nga: 792,73 triệu USD (chiếm 12%), Algeria: 704,71 triệu USD (chiếm 10%)...
46 DỰ ÁN LỖ LŨY KẾ GẦN 1,2 TỶ USD
Bộ trưởng Tài chính cập nhật, tổng số vốn đầu tư thu hồi năm 2020 của các dự án là 248,58 triệu USD, trong đó lợi nhuận chuyển về nước là 118,42 triệu USD; chủ yếu là từ các dự án của Viettel (thu hồi 128,53 triệu USD, với lợi nhuận chuyển về nước là 70,51 triệu USD) và PVN (thu hồi 110,6 triệu USD, với lợi nhuận chuyển về nước là 45,4 triệu USD); còn lại 05 doanh nghiệp khác chuyển về nước số tiền 2,52 triệu USD và 21 doanh nghiệp không phát sinh số thu hồi/chuyển về nước trong năm 2020.
Lũy kế đến ngày 31/12/2020, có 57/131 dự án đầu tư ra nước ngoài của 13/28 doanh nghiệp đã phát sinh thu hồi vốn đầu tư, với tổng số vốn đã thu hồi lũy kế là 3.167,52 triệu USD (bao gồm lợi nhuận chuyển về nước là 1.458,98 triệu USD), bằng 47% tổng số vốn đã đầu tư ra nước ngoài.
Trong số đó, PVN có số vốn đầu tư thu hồi lớn nhất, là 2.386,77 triệu USD (bằng 60% vốn đầu tư thực hiện), đứng thứ hai là Viettel với 706,29 triệu USD (bằng 49% vốn đầu tư thực hiện); số vốn đã thu hồi của 02 doanh nghiệp này chiếm 98% tổng số vốn đã thu hồi của các doanh nghiệp nhà nước.
Tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, theo báo cáo, năm 2020, có 121/131 dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước có báo cáo về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, theo đó: 32 dự án không phát sinh doanh thu, 89 dự án có doanh thu với tổng doanh thu tại nước ngoài năm 2020 là 5.542,92 triệu USD, bằng 79% so với năm 2019.
Trong đó, 28 dự án bị lỗ với tổng số lỗ là 236,89 triệu USD (giảm 06 dự án lỗ nhưng số lỗ tăng 81 triệu USD và bằng 152% so với năm 2019); 61 dự án có lợi nhuận, với tổng lợi nhuận sau thuế là 426,66 triệu USD (giảm 138,34 triệu USD và bằng 75% so với năm 2019).
Số lợi nhuận được chia trong năm của các nhà đầu tư Việt Nam là 118,76 triệu USD (giảm 87,543 triệu USD và chỉ bằng 58% so với năm 2019).
Đến ngày 31/12/2020, có 46 dự án còn lỗ lũy kế với tổng số lỗ lũy kế là 1.171,06 triệu USD (giảm 01 dự án và tăng 120 triệu USD so với năm 2019).
CHƯA ĐƯỢC NHƯ KỲ VỌNG
Đánh giá chung, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho rằng, do ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19, nền kinh tế thế giới tăng trưởng thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án tại nước ngoài bị tác động rất lớn, doanh thu và lợi nhuận sụt giảm so với năm 2019, lợi nhuận chuyển về nước năm 2020 chỉ bằng 30% so với năm 2019.
So với năm 2019, trong 2020 chỉ phát sinh thêm 04 dự án có thu hồi vốn đầu tư; trong đó, chiếm tỷ trọng lớn (96%) vốn đầu tư đã thu hồi là từ các dự án khai thác dầu khí cùa PVN và các dự án viễn thông của Viettel.
Nhiều dự án tiếp tục gặp khó khăn, tiềm ẩn rủi ro, chưa có hiệu quả đầu tư như: Các dự án khai thác, thăm dò dầu khí phải dừng, giãn tiến độ hoặc thực hiện thú tục kết thúc (có tỷ trọng vốn đầu tư cao); các dự án trồng và chế biến cây cao su, một số dự án vẫn còn trong giai đoạn đàu tư hoặc mới đưa vào khai thác và đang lỗ kế hoạch, tiềm ẩn rủi ro (chính sách đất đai, thuế, lao động; rủi ro thị trường...); một số dự án viễn thông có số lỗ lũy kế lớn hoặc mất quyền kiểm soát và rủi ro tỷ giá; một số dự án không hiệu quả thuộc các lĩnh vực khác vẫn đang hoạt động hoặc dừng triển khai như Dự án khai thác muối mỏ Kali tại Lào, Dự án thành lập Hãng hàng không quốc gia Campuchia, Dự án khai thác khoáng sản Steung Treng - Campuchia...
Nhìn chung, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước chưa đạt được như kỳ vọng đầu tư.
Bên cạnh nguyên nhân chủ quan đã được chỉ ra trong các năm trước như vấn đề về năng lực quản lý, quản trị rủi ro, năng lực dự báo thị trường, kinh nghiệm trong đầu tư ra nước ngoài, thì các nguyên nhân khách quan như chính trị, chính sách đầu tư nước sở tại, và đặc biệt là tác động của dịch bệnh COVID khiến cho tình hình hoạt động của các dự án đầu tư ra nước ngoài năm 2020 bị ảnh hưởng tiêu cực hơn so với năm 2019 - Bộ trưởng Hồ Đức Phớc đánh giá.
Trung Chính
Nhịp sống doanh nghiệp
Xem thêm: nhc.49812021171011202-hnam-maig-iaogn-coun-o-man-teiv-auc-na-ud-ueihn-nauhn-iol/nv.zibefac