Một buổi sáng tháng 5, anh bắt đầu một chuyến đi vào rừng như cả trăm chuyến đi rừng khác để săn ảnh động vật quý hiếm.
Hóa ra, đấy lại là chuyến đi rừng dài nhất xưa nay đối với nhiếp ảnh gia về động vật hoang dã Tăng A Pẩu: cho tới ngày bài báo này lên khuôn, anh vẫn đang ở trong Vườn quốc gia Cát Tiên.
5 tháng cách ly bất đắc dĩ vì đại dịch COVID ấy lại mang đến những món quà bất ngờ và đặc biệt... Anh kể chuyện cho TTCT.
Hồi tháng 4 năm nay, mấy anh ở Vườn quốc gia (VQG) Cát Tiên đã gọi điện rủ tôi lên chơi, nói hoa muồng đào đang nở đẹp lắm. VQG Cát Tiên với tôi không xa lạ gì, từ năm 2008 đến nay tôi tới đó không biết bao nhiêu chuyến.
Thường mỗi chuyến đi lên đây của tôi chỉ kéo dài 3 - 4 ngày. Sáng 28-5, tôi xách xe đi, dự tính đến 30-5 rồi về, vì vậy trên người chỉ có đúng một bộ quần áo cùng máy móc.
Ngày 30-5 tôi nghe tin TP.HCM bắt đầu giãn cách, lúc ấy nếu quyết về thì cũng được nhưng trong đầu lại lóe lên ý nghĩ: mình về nhà lúc này thì cũng làm được gì đâu, thôi ở lại đây luôn, chắc hai tuần giãn cách chứ mấy... Tôi gọi về nhà bảo gửi quần áo lên, dặn mua gửi luôn một cái máy làm bánh mì để đổi bữa với anh em kiểm lâm. Không ngờ dự tính hai tuần kéo dài đến gần 5 tháng...
Nhiều người quen bảo ở 5 tháng trên ấy chắc “tự kỷ” rồi, bắt đầu nói chuyện với cây cỏ rồi... Nhưng đó là 5 tháng của một chuyến đi lịch sử trong đời tôi, giúp tôi làm được nhiều việc mà bình thường không thể làm được.
Ví dụ, cách đây đúng 10 năm, trong một chuyến đi săn ảnh ở VQG Cát Tiên, tôi đã thấy được con cú đại bàng, còn gọi là dù dì Nepal (Spot-belliedeagle-owl). Loài này to bằng con gà trống cỡ lớn.
Nhưng cái “thấy” của 10 năm trước là cái “thấy” thoáng qua, tôi không kịp chụp ảnh nó. Lần này, tôi nghĩ mình có thời gian và lên kế hoạch săn ảnh nó. Cú là một loài mà khi đã chọn nơi nào để cư trú, nó sẽ ở miết đó, tới tận đời con đời cháu. Nó chỉ đi khi cái cây làm tổ ấy bị ngã hay bị sét đánh...
Tôi quay về khu vực mình từng thoáng thấy nó 10 năm trước. Lần mò khu vực này từ chạng vạng đến nửa đêm, cuối cùng số phận cũng mỉm cười cho tôi gặp được nó. Không chỉ 1, mà đến 3 con!
Nhưng đâu phải cứ gặp là có ảnh. Khi thì nó bị khuất cành cây nhiều quá, không chụp được. Khi thì nó nhát quá, cũng bó tay. Đi chụp ảnh động vật hoang dã vừa phải am hiểu vừa phải có sự may mắn nữa.
Những lúc mình dễ chụp nhất là khi nó đang săn mồi, quên béng mọi chuyện. May mắn là cuối cùng, kết quả của hơn một tháng đeo bám nó, tôi cũng chụp được tấm ảnh tạm gọi là ưng ý.
Nhưng thành công lớn nhất trong cuộc cách ly đi săn ảnh suốt 5 tháng này là con voọc bạc. Xưa nay voọc bạc thường chỉ nghe nói đến ở Hà Tiên, nhưng đó là con voọc bạc Đông Dương, có mái tóc dựng đứng như vuốt keo, tên khoa học là Trachypithecus germaini.
Còn ở vườn Cát Tiên là voọc bạc Trường Sơn, còn gọi là voọc bạc Việt Nam (các nhà khoa học gọi là Annamese silvered Langur), có mái tóc xẹp, tên khoa học là Trachypithecus margarita. Voọc bạc Việt Nam hiếm lắm, tôi chưa bao giờ có ảnh.
Hôm nghe các anh ở VQG Cát Tiên bảo họ đã phát hiện con voọc bạc Trường Sơn này, tôi quyết săn ảnh bằng được. Hỏi nó ở đâu, họ dẫn đi, chỉ “khu đó”! Trời, khu đó là một vạt rừng mấy kilômet vuông. Sau ba tháng kiên trì đi tìm hết khu, tôi thấy được nó 6 lần, trong đó có 4 lần bấm máy, và thành công được... 1 lần!
Cứ thế, sáng thì lần mò đi tìm voọc bạc Việt Nam, tối thì tôi đi tìm cú, nhím... Quay đi quay lại thấy hết 5 tháng, làm sao mà trầm cảm được. Đi săn ảnh con nhím không thôi cũng đủ bận rộn.
Nghe qua thì thấy con nhím cũng thường nhưng đừng nói tới tôi, cả mấy anh kiểm lâm cũng bảo hiếm ai thấy được con nhím vào ban ngày. Vậy mà đi miết thì tôi cũng thấy được nó một lần, song không kịp chụp. Nhưng tôi đã biết khu vực nó sống, biết loại trái cây rừng nó thích... nên đêm đêm ra rình chụp.
Hôm chụp nhím thành công nhất là dưới gốc cây bứa đang mùa chín. Trên cây, một chú cầy vòi hương đang ăn. Nó ăn hỗn, nhơi nhơi vài miếng là vứt xuống. Dưới gốc cây, mẹ con nhím chờ bữa ăn dở của cầy vòi hương thả xuống. Ngờ đâu, heo rừng cũng thích quả bứa chín.
Sau tôi khoảng 7m, một heo rừng mẹ đang mong tôi biến đi để ra ăn ké quả bứa với mẹ con nhím. Chờ mãi, hơn hai tiếng nó bắt đầu mất kiên nhẫn, hực lên mấy tiếng báo hiệu như sắp tấn công tôi. Vừa ớn heo rừng mẹ, cũng đã chụp ảnh nhím thỏa thuê, nghĩ cũng đến lúc để heo rừng mẹ kiếm miếng khoái khẩu, tôi rút lui. Khi ấy xem đồng hồ đã 11h đêm.
Nhưng 5 tháng đó, tôi không chỉ đi săn ảnh. Nhớ không lầm thì trong thời gian này có 4, 5 cuộc họp trực tuyến của VQG Cát Tiên về bảo vệ động vật hoang dã, tham vấn phát triển du lịch sinh thái... Các anh ở đây mời tôi dự họp luôn. Và hình như tôi cũng đóng góp được chút đỉnh ý tưởng có ích.
Chuyện đó thật ra cũng đơn giản thôi. Các anh rành về rừng, về quản lý, còn mình thì có cặp mắt của một nhà nhiếp ảnh, cũng đi nhiều nên có đôi chút kinh nghiệm để tham gia vài việc.
Có một chuyện vui vui, ở đây có một khu nhà nghỉ dành cho du khách đam mê du lịch sinh thái, ngay cạnh chỗ ở của anh em kiểm lâm.
Lên tour lên tuyến thì phải có cái tên cho khu nhà nghỉ, thế là vườn mời gọi mọi người đặt tên. Người thì đề nghị gọi là “Nhà nghỉ kiểm lâm”, người thì đề xuất “Hotel kiểm lâm”...
Tôi được hỏi ý kiến và tôi đề nghị gọi là “Lữ quán Kơ nia” vì cạnh đó có một cây kơ nia. Các tên gọi được đưa lên group của VQG cho mọi người bình chọn, vui làm sao, “Lữ quán Kơ nia” được chọn...
Hay khi bàn mở một tuyến mới phục vụ du khách, trên tuyến đó có một cụm 6 cây đa rất đẹp chụm vào nhau. Các anh ở VQG lại gọi tôi, nói tìm giúp cái tên gì hay hay một chút để hấp dẫn du khách.
Tôi gọi là cụm cây đa Lộc giao, giải thích rằng cái tên ấy có từ “lộc” là du khách thích ngay, dân Việt ai chả thích “lộc”, còn giao là giao thoa, giao hòa giữa trời và đất. Tán thế nhưng cũng làm xuôi tai mọi người, và cái tên ấy được chọn!
Chắc cũng do đôi mắt của một nhiếp ảnh gia, tôi thấy một chút khiếm khuyết trong việc khai thác du lịch sinh thái ở VQG Cát Tiên do địa hình ở đây khá bằng phẳng, khó tạo được những điểm nhấn hấp dẫn du khách.
Trong một lần men theo con đường đến khu cứu hộ gấu, tôi lên núi Tượng (gọi là núi nhưng chỉ cao chừng 100m), thấy ở đó có một vị trí lý tưởng để ngắm hoàng hôn. Đưa chương trình “ngắm hoàng hôn Nam Cát Tiên từ núi Tượng” vào tour du lịch, tôi nghĩ sẽ hấp dẫn với du khách, khiến tour đi rừng không bị nhàm. Đề xuất đó cũng được VQG đón nhận.
Nhưng đáng giá nhất trong vai “nhân viên bất đắc dĩ” của VQG là tôi được mời tham gia làm cuốn Sách giới thiệu về VQG Nam Cát Tiên dày 200 trang, dự kiến ra mắt tháng 12-2021.
Tôi như người giám tuyển ảnh cho cuốn sách. Ban đầu cũng hơi ngại vì sợ ảnh của mình về VQG Cát Tiên cũng khá nhiều, dễ bị gọi là “vừa đá bóng vừa thổi còi” nhưng tôi luôn nhủ thầm “công tâm, công tâm...”.
Bức ảnh của tôi chụp trong đợt cách ly 5 tháng này, hình một chú nai có cặp sừng thật đẹp ở tiền cảnh, phía sau là một đàn bò tót, được chọn làm bìa. Thật lòng tôi thích tấm ảnh này, vì cả hai loài này tuy không xung đột với nhau nhưng cùng lọt vào trong một khung hình là điều hiếm thấy.
Đằng sau hình ảnh các loài thú quý hiếm được phát hiện là một hành trình đầy cam go của đội đặt/tháo bẫy ảnh.
Ngày đầu tiên đi đặt bẫy ảnh, chưa quen đường, lại gặp mưa lớn giữa rừng, lúc nằm nghỉ trong lán, Hoàng Tấn Phát tự hỏi “tại sao mình lại làm cái nghề cực khổ này?”. “Hay là bỏ, kiếm việc khác” - ý nghĩ thứ hai ập đến.
Những câu hỏi ấy cũng từng xuất hiện trong tâm trí Nguyễn Văn Viên. Nhưng rồi, hai thanh niên ấy đã gắn bó với công việc này suốt 4 năm qua.
Một ngày trung tuần tháng 9, nhóm 6 người thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Phong Điền gùi thức ăn, vật dụng vào rừng, bắt đầu cuộc tháo bẫy ảnh.
8h sáng, họ tới trạm bảo vệ rừng thuộc khu bảo tồn (ở xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế) đầu nguồn sông Ô Lâu. Chuẩn bị lên đường thì trời đổ mưa lớn. “Giờ mưa lớn, đi rất nguy hiểm. Chúng ta hoãn, mai tính tiếp” - trưởng đoàn Hoàng Tấn Phát (27 tuổi), chốt lại.
Sáng hôm sau hửng nắng, nhóm dậy sớm lên đường. Từ trạm, họ chạy xe máy hơn 1km vào cất ở bìa rừng, rồi cuốc bộ. Từ đó vào đến nơi dựng lán là 25km, băng qua 5 dòng suối lớn nhỏ.
Trong 6 thành viên có 3 người là dân bản địa làm hợp đồng cho khu bảo tồn. Họ là những người khỏe mạnh, nắm vững kỹ năng đi rừng và đảm nhận việc mang vác nặng. 3 thành viên còn lại, Hoàng Tấn Phát, Nguyễn Văn Viên, Trần Văn Nhật là những người trẻ, nắm vững kỹ thuật, máy móc. Nhật, 23 tuổi, là em út trong đoàn. Mới 1 năm tuổi nghề nhưng Nhật đã kịp dằn lưng 4 đợt đi rừng với 2 lần đặt và 2 lần tháo bẫy ảnh.
Chuyến đầu tiên vào rừng theo các anh đặt bẫy ảnh cũng là lần đầu Nhật đi đường rừng dài. Nhật, thân hình mảnh khảnh, thường bị gọi là “mỏng cơm”, rồi cũng ráng theo kịp các anh. Lần đầu đi đặt bẫy ảnh của cậu cũng chính là sinh nhật Nhật, chuyến đi thành một dịp đón mừng tuổi mới giữa rừng già, không thể nào quên.
Đi hết 1/3 chặng đường, nhóm bắt đầu tách ra. Hai người khỏe mạnh nhất vượt lên trước, đi thật nhanh về điểm dựng lán, chuẩn bị cơm nước. Những người còn lại vừa đi vừa nghỉ, đến những điểm đặt bẫy ảnh thì phân công tháo gỡ. Mọi việc diễn ra rất nhanh gọn. “Mùa này phải đánh nhanh, rút nhanh đề phòng trời mưa, nước nguồn đổ về. Dùng dằng chậm chạp sẽ rất nguy hiểm” - anh Phát nói.
Đường dài, liên tục vượt suối, nhiều đoạn leo dốc nên dù trời mát, họ phải liên tục uống nước. Hơn hai giờ vừa đi vừa tháo các bẫy ảnh dọc đường, tất cả cũng đến nơi. Lán nằm trên một quả đồi nhỏ, phía trước là con suối, dưới tán những gốc cây lớn. Phía sau một khe nhỏ nhưng không có nước. “Chọn chỗ này vì nếu bất ngờ mưa lớn đổ về, nước dâng nhanh thì vẫn sẽ có đường rút lui” - anh Phát giải thích.
Tính cả đi và về, cộng thêm hành trình băng rừng, vượt núi lấy bẫy ảnh, chuyến đi ngót nghét 100km.
3h chiều, trời tạnh mưa. Họ băng qua con suối trước lán, Viên dùng máy xác định vị trí các khu vực đặt bẫy ảnh. 3 người bám vào đá, luồn cây vượt lên. Anh Thông cầm rựa đi trước phát quang để anh em phía sau dễ di chuyển hơn. Họ nhận được tín hiệu của chiếc bẫy ảnh đầu tiên.
Trời đổ mưa tiếp khi họ mới lấy được chiếc bẫy ảnh thứ hai. Chiếc cuối cùng, nhóm phải đi vòng xuống lưng chừng đồi rồi lại ngược lên. Một trận gió lớn đã làm gãy những thân cây mục ruỗng, chắn lối đi, dây rừng, cây bụi chen cứng.
Một số đoạn họ phải bò, luồn lách qua bụi cây. Quả đồi dốc, nhiều cây bụi có gai, đường trơn trượt gần 2km. Tuyến này trước đây đi đặt máy đã được phát quang cây bụi, nhưng sau hơn 2 tháng lại um tùm. Gần 1 tiếng đồng hồ, chiếc máy ảnh thứ 3 mới được tìm thấy.
Đường về trơn nhẫy, Viên sẩy chân trượt một cú dài trên triền dốc, may mắn anh nắm được nhánh cây. “Đi rừng mùa này cực lắm, sơ suất là trả giá liền” - Viên nói. Mưa xuống, trời tối đen, cả ba người dò dẫm từng đoạn đường.
Tháo bẫy ảnh khó một thì đặt bẫy ảnh khổ mười. Để chọn được một địa điểm đặt máy, họ phải chia theo từng nhóm thú, từng nhóm động vật để xác định vị trí đặt. Đôi khi để đặt được máy, họ phải lần mò, lựa chọn 3 - 4 nơi. “Vì thế, có khi đặt 1 bẫy ảnh phải ở lại giữa rừng 3 - 4 đêm” - Viên nói.
Ngày hôm sau, cứ hai người một tuyến, cầm theo máy định vị. “Tranh thủ làm hết công suất, cố gắng tháo hết để rút khỏi rừng trong ngày. Mùa này ở lại rừng đêm nào là nguy hiểm chừng đó” - Hoàng Tấn Phát dặn anh em.
Ngày 13-11-2002, Khu BTTN Phong Điền (nằm giáp ranh huyện A Lưới, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế) được thành lập với 41.000ha. Khu vực này được các nhà khoa học trong và ngoài nước khẳng định là nơi sinh sống quan trọng đối với các loài chim vùng núi thấp và loài chim đặc hữu là gà lôi lam mào trắng (tên khoa học Lophura edwardsi).
Ngày 5-6-2016, lần đầu tiên bẫy ảnh được đưa vào đặt ở các khoảnh rừng trong khu bảo tồn. 70 ngày dưới sự theo sát của 43 máy bẫy ảnh trải dài trên 4km cho ra được 2.306 bức ảnh. 18 loài thú, 9 loài chim được ghi nhận. Những chiếc bẫy ảnh có vai trò rất quan trọng trong hoạt động giám sát đa dạng sinh học, giúp bổ sung danh mục loài cho khu bảo tồn, vườn quốc gia.
Những hình ảnh thu nhận được là cơ sở để các nhà bảo tồn xem xét sự tăng giảm quần thể các loài để đưa ra các giải pháp quản lý phù hợp. Nó là công cụ chủ yếu thay thế các đợt khảo sát trước đây.
Khi chưa có bẫy ảnh, những nhà quản lý muốn tìm kiếm bằng chứng tồn tại của các loài thú chủ yếu dựa vào dấu chân, dấu vết thức ăn, nguồn phân để dự báo và định danh loài. Làm thủ công như thế không mang lại hiệu quả cao và mất thời gian. Những bẫy ảnh khiến công việc của họ dễ hơn, các loài được ghi nhận, phát hiện tăng nhiều.
Toàn bộ 63 máy bẫy ảnh được sử dụng tại Khu BTTN Phong Điền được Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên tại Việt Nam (WWF Việt Nam) hỗ trợ trong khuôn khổ dự án CARBI do Chính phủ Đức tài trợ. Bẫy ảnh chủ yếu sử dụng để giám sát các loài sống trên mặt đất. Với các loài chim hay linh trưởng, họ cần công cụ giám sát âm thanh (giọng hót, tiếng hú, kể cả dấu vết thức ăn).
Nhưng máy móc chưa đủ, kiến thức của con người mới quyết định hiệu quả tìm kiếm. Người đặt bẫy phải có kiến thức về sinh cảnh của từng loài.
Muốn ghi lại sự xuất hiện của sao la, họ phải biết sinh cảnh của nó là những hang động đá và ven khe suối ở đầu nguồn các con sông. Muốn ghi lại chim, gà, bẫy ảnh phải đặt ở gần suối, cây bụi, bãi bằng.
Các vườn quốc gia, khu bảo tồn trên khắp Việt Nam cũng đã đưa vào sử dụng hệ thống bẫy ảnh và đem lại kết quả rất lớn trong việc ghi nhận các loài thú, chim.
Trong lần đầu tiên dùng máy bẫy ảnh, họ tìm được loài cầy giông sọc - một trong những loài thú ăn thịt nhỏ quý hiếm nhất thế giới. Con vật này được các chuyên gia Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) nâng thứ hạng bảo tồn lên cấp nguy cấp vào tháng 6-2016. Trước đó, các chuyên gia IUCN nghi ngờ loài này có thể đã tuyệt chủng tại Trung Quốc và Việt Nam.
Ngày 12-3-2021, 56 máy bẫy ảnh được đưa lên đặt ở các tiểu khu 33, 37, 38, 48 xã Phong Mỹ, thuộc Khu BTTN Phong Điền. Hai tháng sau máy ảnh được gom về với hàng ngàn bức ảnh.
Nhiều loài thú, chim như lợn rừng, chim trĩ, nhím, voọc chà vá chân nâu, cầy vằn, cheo cheo được ghi nhận, đặc biệt nhất là sự xuất hiện của mang Trường Sơn - một loài nằm trong sách đỏ Việt Nam. Nó từng được phát hiện trong dãy núi Trường Sơn ở Việt Nam vào năm 1997 nhưng sau đó không ai thấy chúng nữa.
“Có một số loài trước đây đặt bẫy ảnh chỉ ghi nhận được 1 cá thể, nhưng sau này máy ảnh đã chụp được cả một bầy. Thành quả ấy không chỉ là niềm vui với anh em làm nghề lâm nghiệp mà nó còn cho thấy rừng và môi trường sống của các loài thú đang an toàn” - anh Phát nói.
Chuyến tháo 63 bẫy ảnh hồi đầu tháng 9 năm nay khép lại công việc của năm 2021, xác nhận sự an toàn của nhiều loài thú quý mà các đợt bẫy ảnh trước từng ghi nhận. Tháng 4 năm sau, họ sẽ bắt đầu hành trình đặt bẫy ảnh mới.
Xem thêm: mth.41183251112011202-aig-hna-peihn-tom-auc-gnur-gnort-yl-hcac-gnaht-5-neyuhc/nv.ertiout