Nguy cơ thiếu điện không chỉ ở Trung Quốc, Anh hay Ấn Độ mà đang lan sang nhiều quốc gia. Trước nguy cơ này, nước ta cần có giải pháp cấp bách đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế hậu COVID-19, chủ động tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tiến độ các dự án đang ách tắc.
Nguy cơ thiếu điện lộ rõ
Câu chuyện "nguy cơ thiếu điện" lại một lần nữa được "hâm nóng" khi hàng loạt các quốc gia ở Châu Á, thời gian vừa qua phải "vật lộn" với cuộc khủng hoảng năng lượng. Trung Quốc, Ấn Độ... đang đứng trên bờ vực của một cuộc khủng hoảng điện do phụ thuộc quá nhiều vào nhiệt điện, trong khi nguồn cung than đá lại thiếu trầm trọng. Ở Ấn Độ, điện than chiếm khoảng 70% sản lượng điện của quốc gia này.
Việt Nam cũng là quốc gia sử dụng điện từ nhiệt điện khá cao. Theo tờ trình Quy hoạch Điện VIII vừa trình Thủ tướng, Bộ Công Thương cho hay, đến cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn quốc đạt 69.342 MW, trong đó nhiệt điện than là 21.383 MW, chiếm 30,8% công suất và 50% sản lượng; điện khí 9.025 MW (13,1% về công suất, 14,6% sản lượng); điện gió và mặt trời hơn 17.000 MW (24,6% về công suất và 4,1% sản lượng).
Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, nhập khẩu than của Việt Nam tăng nhanh do nhu cầu than cho các nhà máy điện, trong khi khai thác nội địa ngày càng khó khăn, chi phí tốn kém do phải khai thác dưới độ sâu dẫn đến hiệu quả không cao. Việc nguyên liệu đầu vào (than đá) phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến ngành công nghiệp năng lượng của Việt Nam.
Số liệu tại tờ trình Quy hoạch Điện VIII cho thấy, với phương án cơ sở, than nhập khẩu sẽ tăng từ 53,8 triệu tấn vào năm 2030 lên 75,3 triệu tấn vào năm 2045; với phương án cao, than nhập khẩu tăng từ 56,3 triệu tấn vào năm 2030 lên 80,3 triệu tấn vào năm 2045.
Đánh giá về phương án nhiên liệu sử dụng cho phát điện giai đoạn tới năm 2045, Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) cho biết, từ năm 2030 trở đi, Việt Nam sẽ phải chi ít nhất từ 10-15 tỉ USD/năm, để phục vụ việc nhập khẩu than, khí làm nhiên liệu cho sản xuất điện.
Tính toán này được GWEC dựa trên cơ sở dự kiến công suất huy động từ các nguồn điện sử dụng nhiên liệu nhập khẩu, thông số kỹ thuật và giá nhiên liệu dự kiến trong dự thảo Quy hoạch Điện VIII.
"Với tỉ lệ nguyên liệu nhập khẩu ngày càng lớn, đặc biệt là nguồn khí nhập khẩu, năng lượng Việt Nam sẽ phụ thuộc với thị trường nhiên liệu thế giới vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro và biến động. Bởi, hiện có đến 70% dự án nhiệt điện than chậm tiến độ”, GWEC nhận định.
Theo đó, danh mục dự án ưu tiên của dự thảo Quy hoạch Điện VIII liệt kê 21 dự án điện than. Qua rà soát cho thấy, khoảng 70% dự án chậm tiến độ, trong đó, có những dự án đã được đưa vào từ Quy hoạch Điện VI (2006-2010) và tiếp tục điều chỉnh tiến độ ở Quy hoạch Điện VII (2011-2020), nhưng đến nay vẫn chưa thể đưa vào vận hành.
Giải pháp nào để đảm bảo đủ điện
Trao đổi với Lao Động, ông Mark Hutchinson - Chủ tịch Nhóm công tác khu vực Đông Nam Á của GWEC cho biết, từ trước đến nay, Trung Quốc luôn là "thành trì" cuối cùng cung cấp và đầu tư tài chính trong lĩnh vực điện than. Với các dự án điện than chưa xây dựng, chưa huy động vốn ở Việt Nam, hiện vấn đề kêu gọi đầu tư tài chính rất khó.
Bởi, từ cuối tháng 9.2021, Trung Quốc đã tuyên bố không đầu tư điện than ở nước ngoài. "Kỷ nguyên" xây dựng dự án điện than dựa vào nguồn vốn nước ngoài đã chấm dứt. Cho nên, muốn huy động vốn thì chỉ còn cách dựa vào ngân hàng trong nước, hoặc Chính phủ thực hiện đầu tư công để thực hiện các dự án điện than.
Để tránh "rơi" vào cuộc khủng hoảng thiếu điện như Trung Quốc, Ấn Độ, theo ông Mark, Việt Nam cần đa dạng hoá nguồn điện, tránh trường hợp một nguồn chiếm tỉ trọng quá lớn, gây ảnh hưởng lớn đến an ninh năng lượng. Các nguồn điện cần được phát triển như điện gió ngoài khơi, điện gió trên bờ, điện mặt trời, thuỷ điện...; và tăng cường hệ thống pin tích trữ năng lượng.
Để tránh nguy cơ thiếu điện, chuyên gia năng lượng Nguyễn Tài Sơn - nguyên Tổng Giám đốc Công ty CP Tư vấn Xây dựng điện 1 nêu quan điểm, các nhà hoạch định chính sách cần phải đánh giá lại toàn bộ các nguồn cung trước mắt và lâu dài, xác định cơ cấu nguồn hợp lý, sử dụng chính sách giá mua điện để kích thích hoặc hạn chế đầu tư loại nguồn điện.
Đây là giải pháp tổng hợp liên quan đến khả năng của nguồn cung cấp, độ tin cậy của đối tác và chi phí của hệ thống; khai thác tối ưu các nguồn năng lượng trong nước hiện có, bao gồm cả chính sách tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng.
Nhiều dự án lớn chậm tiến độ
Dự án Nhiệt điện Thái Bình 2 là một trong 12 dự án yếu kém của ngành Công Thương được Chính phủ quyết liệt chỉ đạo giải quyết vướng mắc, tồn đọng kéo dài để sớm hoàn thành. Tuy nhiên, thời điểm này, dự án đang được khởi động trở lại sau thời gian dài "ngủ đông".
Tương tự, các dự án nguồn điện quan trọng khác như Sông Hậu 1, Long Phú 1, Na Dương 2, Cẩm Phả 3… cũng đang chậm tiến độ. Với dự án lưới điện, một số dự án đã nhiều lần lỗi hẹn. Có thể kể đến Dự án Đường dây 500kV mạch 3 đoạn Vũng Áng - Quảng Trạch - Dốc Sỏi; Dự án Đường dây 500kV Tây Hà Nội - Thường Tín… Theo Tổng Công ty Truyền tải điện quốc gia, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến việc các dự án chưa thể hoàn thành là do ách tắc trong khâu bồi thường giải phóng mặt bằng.
Nguy cơ thiếu điện, Bộ Công Thương báo cáo gì với Chính phủ?
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên vừa có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình cung ứng điện trước bối cảnh thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng nhiên liệu.
Theo đó, để đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Bộ Công Thương cho rằng, việc Chính phủ sớm phê duyệt Quy hoạch Quy hoạch Điện VIII là giải pháp quan trọng góp phần giảm nguy cơ thiếu điện trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế đất nước, hậu COVID-19.
Ngoài ra, Bộ này cũng rà soát các dự án điện đang xây dựng và đưa vào vận hành trong giai đoạn 2021-2025, đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo tiến độ đã đề ra, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong đầu tư xây dựng và vận hành các công trình nguồn và lưới điện. Mặt khác, Bộ Công Thương chỉ đạo EVN đẩy nhanh tiến độ đàm phán, ký kết và triển khai thực hiện các hợp đồng nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Lào.
Xem thêm: odl.618869-neid-ueiht-oc-yugn-ohp-gnu-hcab-pac/et-hnik/nv.gnodoal