Theo IEA, chiến sự và sự gián đoạn với các thị trường năng lượng mà nó gây ra đã giúp phân bổ lại cung và cầu toàn cầu. Nếu các chính phủ thực hiện tốt các mục tiêu mà họ đề ra gần đây để ứng phó với cuộc khủng hoảng, họ sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo.
Dựa trên một kịch bản như vậy, IEA cho biết nhu cầu than tăng do cuộc khủng hoảng năng lượng sẽ chỉ là tạm thời. Trong khi đó, nhu cầu khí đốt sẽ ổn định vào cuối thập kỷ này. Do xe điện ngày càng phổ biến, nhu cầu dầu mỏ sẽ đạt đỉnh vào khoảng giữa thập kỷ tới, duy trì cho đến khoảng năm 2050 và sau đó sẽ giảm.
Đây là lần đầu tiên IEA đưa ra các mốc dự báo về triển vọng tiêu thụ cho đầy đủ các nhiên liệu cơ bản, thay vì chỉ dự báo về dầu mỏ như trước.
"Thế giới năng lượng đang thay đổi đáng kể trước mắt chúng ta. Các phản ứng của chính phủ trên khắp thế giới hứa hẹn sẽ biến đây thành một bước ngoặt lịch sử và dứt khoát", Fatih Birol, Giám đốc điều hành của IEA, đánh giá.
IEA không cho rằng sẽ có sự suy giảm nhanh chóng về cơn khát dầu, khí đốt và than của thế giới. Là một phần của nguồn cung cấp năng lượng toàn cầu, nhiên liệu hóa thạch đã giữ ổn định tỷ trọng ở mức 80% trong nhiều thập kỷ. Cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay sẽ khiến tỷ trọng này dần giảm xuống dưới 75% vào năm 2030 và xuống 60% vào năm 2050.
Vài giờ sau khi báo cáo của IEA được công bố hôm 27/10, Giám đốc điều hành Shell Ben van Beurden, nói rằng nhu cầu nhiên liệu hóa thạch chắc chắn sẽ đạt đỉnh nhưng thế giới vẫn cần đầu tư vào các dự án mới để đáp ứng nhu cầu đó trong nhiều năm tới.
"Không có nghi ngờ gì rằng thực tế, nhu cầu và nguồn cung dầu sẽ đạt đỉnh và dự đoán nó sẽ diễn ra trong thập kỷ này. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ không cần các dự án mới", ống nói.
Ông Ben van Beurden và lãnh đạo doanh nghiệp dầu mỏ khác đã cảnh báo rằng nếu không có đầu tư mới, nguồn cung sẽ giảm nhanh hơn cầu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt mà các quốc gia đang phải vật lộn như hiện nay.
Theo IEA, giá nhiên liệu hóa thạch tăng vọt và sự mất mát đột ngột nguồn cung của Nga gần đây đã đẩy nhanh các cam kết phát triển năng lượng tái tạo của nhiều chính phủ. Cơ quan này ước tính tổng trị giá các cam kết đạt 2.000 tỷ USD vào 2030, nhiều hơn 50% so với mức hiện tại.
IEA cho biết sản lượng xuất khẩu năng lượng giảm của Nga là một yếu tố quan trọng trong dự báo của họ và mức giảm có thể là vĩnh viễn. Sự xoay trục của châu Âu sang năng lượng tái tạo sẽ khiến nước này trở thành một thị trường khó có thể phục hồi lớn với năng lượng Nga.
Mặc dù Nga đã tìm cách chuyển hướng cung cấp khí đốt và dầu sang các nền kinh tế châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ, nước này cũng phải đối mặt với những thách thức ở đó. EU đặt mục tiêu áp đặt các biện pháp trừng phạt mới với việc vận chuyển dầu thô của Nga trên toàn thế giới. Trong khi đó, việc thiếu các đường ống dẫn khí đốt ở các vùng phía đông của Nga sẽ khiến việc vận chuyển sang Trung Quốc trở nên khó khăn, theo IEA.
Trong khi đó, một số nền kinh tế lớn đã lên kế hoạch đẩy nhanh triển khai năng lượng tái tạo. Tại Mỹ, gói luật về khí hậu, chăm sóc sức khỏe và thuế của chính quyền Biden, đã phân bổ khoảng 369 tỷ USD cho các chương trình khí hậu và năng lượng, bao gồm trợ giá mua xe điện và đầu tư vào năng lượng tái tạo và hạt nhân.
EU đã vạch ra kế hoạch chi 317 tỷ USD trong 5 năm tới để đại tu nguồn cung cấp năng lượng và chấm dứt sự phụ thuộc vào năng lượng của Nga. Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đưa ra các kế hoạch tương tự. Trong khi đó, Trung Quốc đang đạt kỷ lục về lắp đặt năng lượng gió và năng lượng mặt trời.
"Hiện có những mục tiêu thực sự đầy tham vọng để tăng cường năng lượng tái tạo. Cuộc khủng hoảng là một bộ khuếch đại và một lời cảnh tỉnh cho quá trình chuyển đổi năng lượng. Nó có tiềm năng trở thành một chất xúc tác thực sự", Jasbir Basi, Chuyên gia công ty tư vấn Global Counsel trụ sở tại London, nhận định.
Bất chấp dự báo của IEA, nhiều nhà kinh tế năng lượng cảnh báo rằng kế hoạch giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch và tăng cường nguồn năng lượng sạch của các quốc gia đang gặp phải những trở ngại lớn, đặc biệt là trong thời kỳ thị trường hỗn loạn và thiếu điện hiện nay.
Tiêu thụ than đã tăng lên ở châu Âu khi cuộc chiến ở Ukraine và những hạn chế tiếp theo trong việc cung cấp khí đốt đã thúc đẩy các quốc gia từ Đức đến Italy duy trì hoạt động các nhà máy điện than lâu hơn, tăng sản lượng hoặc đưa các nhà máy trở lại sau khi nghỉ hưu.
Các chính phủ châu Âu đang vật lộn để tìm nguồn cung cấp khí đốt thay thế, nghiên cứu các biện pháp bao gồm các hợp đồng dài hạn và các hạ tầng nhập khẩu đắt tiền. Theo các nhà môi trường, những giải pháp này có thể kéo dài thời gian sử dụng nhiên liệu hóa thạch hơn.
Cùng với đó, thị trường năng lượng toàn cầu bất ổn và tình trạng thiếu điện trong năm qua đã khiến Trung Quốc - quốc gia phát thải khí nhà kính lớn nhất thế giới - xem xét phê duyệt xây dựng thêm nhà máy điện than trong nước.
Trong khi đó, việc triển khai năng lượng tái tạo như gió và mặt trời đã đình trệ ở các quốc gia bao gồm Mỹ và Ấn Độ, do các yếu tố khác nhau từ chính sách, rào cản thương mại đến tắc nghẽn vận chuyển và chậm cấp phép.
Trong dự báo trước đó, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã đặt ra mốc thời gian xa hơn IEA nhiều. Theo họ, nhu cầu dầu mỏ sẽ đạt đỉnh ở các quốc gia giàu có bắt đầu từ giữa những năm 2020, nhưng nhu cầu ở các nước nghèo hơn sẽ tiếp tục tăng ít nhất cho đến năm 2045.
Phiên An (theo WSJ)