TAND Tối cao vừa ban hành quyết định công bố bốn án lệ, trong đó có Án lệ số 56/2022/AL về việc giải quyết tranh chấp di dời mồ mả.
Nguồn án lệ dựa trên bản án dân sự sơ thẩm ngày 18-11-2013 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Vụ án tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn cản di dời mồ mả giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thu V với bị đơn là anh Vương Minh T, anh Vương Minh H.
Hình minh họa. Ảnh: PLO |
Muốn đem hài cốt của chồng về đất nhà chôn cất
Theo bà V, chồng bà là ông Vương Văn A, sinh năm 1945, chết năm 2004. Trước khi chết, chồng bà có tâm nguyện chôn cất tại đất nhà ấp B, xã M, huyện C, tỉnh Kiên Giang. Nhưng vào thời điểm chồng bà chết, phần đất của gia đình bà đang trong quy hoạch nên bà đem ông A về phần đất của anh chồng bà là ông B chôn cất với ý định là nhờ để chờ qua quy hoạch sẽ đem hài cốt chồng của bà về đất nhà chôn cất.
Hiện nay, phần đất của gia đình bà ổn định, bà muốn thực hiện theo nguyện vọng của chồng bà nhưng hai cháu là anh T và anh H ngăn cản không đồng ý.
Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu tòa buộc anh T và anh H không được ngăn cản việc bà đem hài cốt của ông A về đất nhà của bà để chôn cất.
Bị đơn là anh T và anh H cùng có ý kiến trình rằng ông A là chú ruột của hai anh. Lúc ông A chết có chôn cất trên phần đất của gia đình anh, hiện nay do anh T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các anh không đồng ý với yêu cầu của bà V với lý do ông A hiện nay là không có người thân bên cạnh chăm sóc mồ mả, tạm thời để anh em anh chăm sóc khi nào xác định có người thân bên cạnh thì anh em anh sẽ đồng ý cho bà V di dời hài cốt. Anh em anh đã chăm sóc khoảng 15 năm nay rồi nên không đồng ý.
Xử sơ thẩm TAND huyện Châu Thành tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà V, buộc anh T và anh H phải chấm dứt hành vi cản trở việc bà V di dời hài cốt của ông A.
Nội dung án lệ:
Trong quá trình giải quyết vụ án các bên đều thống nhất xác định trên phần đất của anh T và anh H có phần mộ của ông A. Bà V là vợ hợp pháp của ông A, nay bà có nguyện vọng di dời hài cốt của chồng bà là ông A về phần đất nhà của bà để chôn cất và chăm sóc. Xét yêu cầu di dời hài cốt ông A là chồng của nguyên đơn bà V là có căn cứ và phù hợp với phong tục tập quán cũng như truyền thống của người Việt Nam.
Việc anh T và anh H đưa ra những lý do trên để ngăn cản bà V di dời hài cốt của chồng mình là không hợp lý, bởi bà V có mối quan hệ là vợ của ông A được pháp luật cũng như các bên thừa nhận nên có quyền thăm nom, chăm sóc và quản lý mồ mả của chồng mình là phù hợp với đạo lý cũng như thuần phong, mỹ tục của người Việt Nam và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLDS 2015.