Tối 1/10/1993, Polly tổ chức tiệc ngủ với hai bạn tại nhà ở thành phố Petaluma, California, mẹ cô bé ngủ ở phòng kế bên. Khoảng 22h30, một kẻ say rượu đột nhập phòng Polly, nói sẽ không làm hại ai và chỉ muốn tiền. Hắn trói hai bạn của Polly, kéo vỏ gối trùm qua đầu và bảo đếm đến 1.000. Sau đó hắn dùng dao đe dọa, bắt cóc Polly.
Bố mẹ Polly đã ly hôn. Bố cô bé đang sống ở một ngôi nhà khác vào thời điểm xảy ra vụ việc.
Ngay sau khi nhận được tin, cảnh sát địa phương gọi cho FBI, hợp sức tìm kiếm manh mối. Một họa sĩ được thuê để phác họa chân dung nghi phạm dựa trên mô tả của các nhân chứng. Thông tin về nghi phạm được phát trong vòng 30 phút sau vụ bắt cóc, nhưng chỉ giới hạn trên kênh của Cảnh sát trưởng hạt Sonoma.
FBI sử dụng công nghệ tiên tiến để thu thập 48 dấu tay, các sợi quần áo và các bằng chứng khác không thể phát hiện bằng các phương pháp thông thường. Họ đối chiếu với gia đình và bạn bè nạn nhân, cuối cùng phát hiện một dấu bàn tay lạ được tìm thấy trên khung giường tầng bằng gỗ của Polly, nhưng không thể kết nối với bất kỳ ai trong cơ sở dữ liệu tội phạm.
Vụ bắt cóc, được đánh giá là rất hiếm gặp vì nạn nhân bị người lạ bắt cóc ngay tại nhà, tạo nên một trong những cuộc truy lùng lớn nhất lịch sử FBI.
Khoảng 4.000 người tham gia tìm kiếm Polly. Khuôn mặt có lúm đồng tiền của cô bé xuất hiện trên bản tin quốc gia hàng đêm, trên trang bìa tạp chí People và trên hơn 8 triệu tờ rơi được phân phát ở tận Trung Quốc.
Vụ án được giới thiệu trong một tập America's Most Wanted, thu hút sự chú ý của người dân khắp cả nước, trong đó có nữ diễn viên Winona Ryder. Cô giúp giúp vụ việc được nhiều người biết đến hơn qua các cuộc phỏng vấn, thậm chí treo thưởng 200.000 USD cho thông tin giúp tìm thấy Polly.
Cuộc truy tìm kéo dài hai tháng diễn ra vào buổi bình minh của thời đại Internet, đánh dấu lần đầu tiên một tờ rơi tìm người mất tích được đăng trực tuyến, chứ không chỉ được ghim vào cột điện và dán băng keo lên cửa sổ các cửa hàng.
Sau khi nhận được 60.000 tin báo và điều tra 12.000 manh mối, cảnh sát Petaluma và FBI vẫn chưa tìm ra nghi phạm.
Cho đến ngày 27/11/1993, gần hai tháng sau khi Polly mất tích, cảnh sát mới có bước đột phá.
Nữ đầu bếp tên Dana Jaffe tìm thấy "những món đồ đáng ngờ", bao gồm một chiếc áo len, quần legging múa ba lê bị rách của bé gái, trong chuyến đi bộ đường dài trên khu đất rộng lớn, nhiều cây cối và hẻo lánh của cô ở Sonoma. Sau khi xem bản tin hàng ngày về cuộc tìm kiếm Polly, trực giác khiến Dana nhận thấy điều này có mối liên hệ với Polly.
Dana kể lại với cảnh sát về một người lạ khả nghi mà cô gặp vào tháng 10, chỉ vài giờ sau khi Polly biến mất. Hôm đó, Dana nhìn thấy một ôtô mắc kẹt trong mương trên đường lái xe vào nhà cô ở vùng nông thôn vắng vẻ. Cô gọi cảnh sát, mô tả tài xế trông nhếch nhác rất đáng ngờ, có vẻ sợ hãi và hoảng loạn.
Khi đến hiện trường, cảnh sát nhận thấy tài xế tỏ ra lo lắng, đổ mồ hôi và có những mảnh vụn vôi vữa trên quần áo. Họ kiểm tra bằng lái và biển số xe của anh ta nhưng không kiểm tra hồ sơ tiền án vì đó không phải là quy trình tiêu chuẩn vào thời điểm đó. Họ cũng khám xét xe kỹ lưỡng nhưng không thấy gì khả nghi.
Sau khi hỗ trợ kéo xe ra khỏi mương, cảnh sát thả tài xế đi. Vào thời điểm đó, các cảnh sát này không hề biết về vụ bắt cóc Polly vì thông tin không được phát trên các kênh radio của họ.
Ngày 28/11, cảnh sát xem xét hồ sơ và tìm thấy tên tài xế là Richard Allen Davis. Họ kiểm tra hồ sơ tiền án của Richard và phát hiện một danh sách dài hàng trang, bao gồm án tù vì một vụ bắt cóc trước đó. Hắn chỉ mới ra ngoài được khoảng sáu tháng.
Một phòng thí nghiệm pháp y của FBI so sánh các sợi quần áo được tìm thấy ở nhà Polly với bộ quần áo mà Dana tìm thấy. Đội pháp y cũng đối chiếu dấu tay của Richard với dấu bàn tay được tìm thấy tại hiện trường vụ án. Kết quả đều trùng khớp.
Cảnh sát nhanh chóng truy dấu và bắt Richard với lý do vi phạm quy định ân xá. Trong cuộc thẩm vấn, Richard phủ nhận bắt cóc Polly và khẳng định có bằng chứng ngoại phạm.
Cùng lúc đó, cảnh sát tổ chức cuộc tìm kiếm quy mô lớn ở một số khu vực nông thôn California với hơn 500 tình nguyện viên trong hai ngày 3-4/12/1993, nhưng không có kết quả.
Đến tối 4/12/1993, Richard thú nhận đã đột nhập, trói các cô bé và bắt cóc Polly. Hắn khai đã siết cổ cô bé trong xe và chôn thi thể trong ngôi mộ nông gần quốc lộ.
Sau khi đồng ý tiết lộ vị trí thi thể Polly, Richard được các điều tra viên áp giải lên xe. Một cảnh sát kể rằng phải kìm nén cơn thịnh nộ khi thấy hắn ngồi tựa lưng vào ôtô, hút thuốc với hai tay bị còng trước mặt như thể không quan tâm đến bất cứ thứ gì.
Tuy nhiên, Richard từ chối cung cấp chi tiết các sự việc diễn ra kể từ ngày 1/10. Các điều tra viên cho rằng sau khi xe bị kẹt trong mương, hắn lo sợ người đi ngang qua sẽ báo cảnh sát. Hắn sát hại Polly trước khi cảnh sát đến và giấu xác trong bụi rậm trên sườn đồi phía trên nơi xe bị kẹt. Hắn thở hổn hển, đổ mồ hôi đầm đìa giữa đêm mát mẻ và có cành cây, lá dính trên tóc khi cảnh sát đến.
Richard được cho là đã đợi một khoảng thời gian rồi lái xe quay lại, chôn thi thể. Vị trí ngôi mộ được hắn lựa chọn từ trước, nơi này người bình thường rất khó phát hiện và thuận tiện cho hắn theo dõi hoạt động của cảnh sát vì thường lái xe qua đây.
Richard bị buộc tội giết người cấp độ một với các tình tiết đặc biệt gồm đột nhập để trộm cướp, bắt cóc và âm mưu thực hiện hành vi dâm ô với trẻ em, đủ để khiến hắn nhận án tử hình.
Sau một tháng rưỡi xét xử, bồi thẩm đoàn tuyên Richard phạm tội Giết người cấp độ một vào tháng 6/1996. Vào cuối phiên tòa, hắn giơ hai ngón giữa chế nhạo gia đình Polly, gây ra cơn phẫn nộ trên toàn quốc.
Richard bị kết án tử hình vào cuối năm 1996. Thẩm phán cho biết hành vi của hắn trên phiên tòa khiến bản án tử hình được đưa ra dễ dàng hơn. Richard vẫn đang chờ thi hành án.
Vụ bắt cóc Polly - cô bé được gọi là "Đứa con nước Mỹ" - đã thúc đẩy nhiều thay đổi trong quá trình điều tra tội phạm và thực thi pháp luật.
Theo cựu Giám đốc FBI Louis J. Freeh, những hiểu biết sâu sắc thu thập được từ vụ án được sử dụng để cải thiện khả năng phản ứng của Cục với các vụ bắt cóc trẻ em. Mary Ellen O'Toole, chuyên gia lập hồ sơ FBI từng tham gia vụ án, sau đó đã viết bản tập hợp các quy tắc ứng phó bắt cóc của FBI.
Các phương pháp điều tra lần đầu được áp dụng trong vụ án này như lấy dấu vân tay bằng bột huỳnh quang, so sánh các sợi vải để liên kết các hiện trường vụ án... đã giúp thay đổi mãi mãi cách tiếp cận của FBI đối với việc điều tra hiện trường, khoa học pháp y, khoa học hành vi trong nhiều loại tội phạm khác.
Từ việc cảnh sát bỏ lỡ manh mối suốt hai tháng, nhà chức trách tiến hành cải thiện thông tin liên lạc giữa các đơn vị thực thi pháp luật liên bang và địa phương. Máy tính được đặt trong xe tuần tra để cảnh sát có thể tra cứu các vụ bắt giữ và kết án trước đó của nghi phạm theo thời gian thực. Hệ thống radio được nâng cấp, các bản tin được phát trên tất cả các kênh của cảnh sát thông qua hệ thống điều phối 911.
Vụ án cũng thúc đẩy các luật mới nhằm trừng trị những kẻ phạm tội nhiều lần, bao gồm luật "Three-strikes law" của California, quy định các bị cáo phải chấp hành bản án chung thân bắt buộc và không có cơ hội ân xá sau khi bị kết án ba tội nghiêm trọng.
Vụ bắt cóc Polly được tái hiện qua phim tài liệu Free to Kill: The Polly Klaas Murder (1996), Motives & Murder: Cracking the Case: Who Took Polly Klaas? (2014), Taken In The Night (2023), cuốn sách In Light of All Darkness: Inside the Polly Klaas Kidnapping and the Search for America's Child.
Tuệ Anh (Theo ABC, Time, LA Times)
Xem thêm: lmth.1050664-pahp-taul-gnoht-eh-iod-yaht-ym-coun-noc-aud-coc-tab-uv/ten.sserpxenv