50 năm trước, giá dầu WTI (dầu Texas ngọt nhẹ) từ 4,31 USD/thùng vào đầu tháng 9-1973 vọt lên 10,11 USD vào tháng 1-1974, gây ra cuộc đại khủng hoảng dầu hỏa. 50 năm sau, tối 24-9 giờ New York, giá dầu WTI tăng lên tới 90,15 USD/thùng (từ mức giá 67,82 USD hồi tháng 3-2023). Hai cuộc khủng hoảng có gì chung, có gì khác?
Cho tới năm 2016, năm mà hai tác giả Christiane Baumeister và Lutz Kilian công bố nghiên cứu "Bốn mươi năm biến động giá dầu: Tại sao giá dầu vẫn có thể làm chúng ta ngạc nhiên?", dường như người ta vẫn còn cho rằng một trong những nguyên nhân cơ bản của "sự gián đoạn dòng sản xuất dầu toàn cầu liên quan đến các sự kiện chính trị ngoại sinh như chiến tranh và các cuộc cách mạng ở các nước thành viên OPEC".
Cách giải thích truyền thống cho biến cố dầu hỏa 1973 là cuộc chiến giữa Israel và liên minh Ả Rập từ 6-10 đến ngày 26-10-1973 đã gây ra cú sốc cung. Hình ảnh nổi bật của giai đoạn này là những giếng dầu đang bốc cháy.
Nhưng giờ nhìn lại, theo nghiên cứu đã dẫn, không hề có chiến sự ở bất kỳ nước Ả Rập sản xuất dầu nào vào năm 1973, cũng không có cơ sở hạ tầng sản xuất dầu nào bị phá hủy.
Cuộc chiến chủ yếu diễn ra ở Israel, Ai Cập và Syria, đều không phải là các quốc gia sản xuất dầu lớn hay thành viên OPEC. Do đó, sự gián đoạn của phía cung diễn ra cuối năm 1973 không có nguyên nhân trực tiếp là chiến tranh.
Thay vì thế, các nước Ả Rập OPEC đã cố tình cắt giảm 5% sản lượng dầu từ ngày 16-10-1973, 10 ngày sau chiến tranh Ả Rập - Israel nổ ra, đồng thời tăng giá niêm yết, và thông báo cắt giảm thêm 25% sản lượng vào ngày 5-11, 10 ngày sau khi chiến tranh kết thúc.
Năm 1960, trước tình trạng giá xăng dầu sụt giảm, đại diện 5 quốc gia sản xuất dầu mỏ - Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia và Venezuela - gặp nhau tại Baghdad vào tháng 9 để thảo luận.
Kết quả của hội nghị là Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) ra đời. Những năm 1960, OPEC không được các tập đoàn dầu mỏ lớn của Mỹ và châu Âu coi ra gì.
Tuy nhiên, thay đổi quyết liệt đã sớm đến từ Libya - quốc gia có tới 21 công ty dầu mỏ và cung cấp 1/3 nhu cầu dầu mỏ của châu Âu.
Thay đổi đến từ nhà lãnh đạo mới của nước này là Muammar Qaddafi, người chỉ huy cuộc đảo chính tháng 9-1969 lật đổ vua Idris.
Qua năm sau, ông Qaddafi chọn công ty dầu Occidental (mà toàn bộ hoạt động đều ở Libya nên dễ bị bắt chẹt hơn) để đòi một thỏa thuận tốt hơn.
Kết quả là Libya nhận được mức tăng 30 xu/thùng (lên 2,53 USD) và thêm 0,02 USD mỗi năm trong 5 năm tiếp theo.
Trong vòng hai tháng, các công ty dầu mỏ khác đã đồng ý những thỏa thuận tương tự với Chính phủ Libya, đồng nghĩa Libya giờ sẽ được phần chia lợi nhuận lớn hơn (dù cũng chỉ là 54-58%).
Hội đồng Quan hệ đối ngoại (CFR), một tổ chức nghiên cứu ở Mỹ, ghi lại: "Tháng 4-1971, OPEC từ chối cho phép các công ty dầu mỏ nước ngoài giao dịch với toàn bộ tổ chức.
Thay vào đó, khối buộc họ phải đàm phán riêng, một thỏa thuận dành cho các nhà sản xuất ở vùng vịnh Ba Tư (Thỏa thuận Tehran) và một cho các nhà sản xuất ở Địa Trung Hải (Thỏa thuận Tripoli), dẫn đến giá cao hơn. Đây là bước ngoặt với ảnh hưởng của OPEC".
Nhưng ngay năm 1973, các tỉ lệ ăn chia và hạn kỳ 5 năm đều trở nên lỗi thời. Nhu cầu dầu toàn cầu tăng nhanh vào năm 1972-1973, ngành dầu mỏ nhiều nước Trung Đông hoạt động gần hết công suất và không thể tăng sản lượng, mà chỉ có thể tăng giá.
Giá niêm yết đã được thỏa thuận năm 1971 có thể là hợp lý vào thời điểm đó, nhưng nhanh chóng lạc hậu do đồng đô la Mỹ mất giá và lạm phát gia tăng ở Mỹ.
Báo cáo tháng 9-2023 của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) cho biết nhu cầu dầu hỏa thế giới vẫn trên đà tăng thêm 2,2 triệu thùng/ngày vào năm 2023, lên mức 101,8 triệu thùng/ngày, bởi sức tiêu thụ tăng trở lại ở Trung Quốc, tăng sử dụng nhiên liệu máy bay và các nguyên liệu hóa dầu.
IEA còn dự báo việc Saudi Arabia và Nga gia hạn cắt giảm sản lượng đến cuối năm sẽ khiến thị trường thâm hụt đáng kể trong quý 4-2023.
Riêng Nga, tổng xuất khẩu dầu đã giảm 150.000 thùng/ngày trong tháng trước, xuống còn 7,2 triệu thùng/ngày, thấp hơn 570.000 thùng/ngày so với một năm trước.
Tính đến thời điểm này, sản lượng của OPEC+ đã giảm 2 triệu thùng/ngày, dù mức giảm này được bù đắp phần nào do Iran tăng mạnh sản lượng.
Kết quả là nguồn cung ngoài OPEC+ đã tăng 1,9 triệu thùng/ngày lên mức kỷ lục 50,5 triệu thùng/ngày vào tháng 8.
IEA cảnh báo: quan sát toàn cầu cho thấy tồn kho dầu giảm mạnh 76,3 triệu thùng trong tháng 8, xuống mức thấp nhất trong 13 tháng qua.
Tồn kho dầu ngoài khối OECD giảm 20,8 triệu thùng với mức giảm lớn nhất là ở Trung Quốc, trong khi tồn kho của OECD giảm 3,2 triệu thùng.
Ngoài việc nguồn cung chính cắt giảm sản lượng, một điểm tương tự nữa của cuộc khủng hoảng hiện giờ so với 50 năm trước là Mỹ vừa trải qua giai đoạn lạm phát cao và có những lúc vị thế đồng USD bị đe dọa. Dù nay giá USD đã tăng trở lại, những rủi ro tỉ giá luôn gắn chặt với biến động giá dầu.
Ngoài ra, giống như cuộc chiến Israel - Ả Rập trở thành chất xúc tác cho tình trạng giá dầu tăng phi mã nửa thế kỷ trước, những diễn biến của giá dầu hiện tại sẽ phụ thuộc không ít vào diễn tiến và kết cục của một cuộc chiến khác: Nga và Ukraine.
Từ giữa tháng 8 năm nay, cùng giá xăng dầu, câu chuyện tỉ giá nóng trở lại.
Trong hầu hết bản tin phân tích chứng khoán mà tôi đọc, "sức ép tỉ giá" là thuật ngữ được lặp đi lặp lại.
"Tỉ giá còn tăng nữa không?" cũng trở thành câu hỏi nhiều bạn làm xuất nhập khẩu hỏi tôi trong chuyến về ngắn ở TP.HCM hồi đầu tháng 9.
Việc tỉ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước công bố vượt mốc 24.000 VND cho 1 USD cũng góp phần tạo tâm lý lo ngại với rủi ro tỉ giá. Thực tế vấn đề có đáng lo như vậy không?
Áp lực mất giá của VND không phải chuyện riêng của Việt Nam. Sau một thời gian yếu đi từ tháng 3 năm nay, đồng USD đã tăng lại mạnh mẽ vào tháng 7, và chỉ số đồng đô la Mỹ - thước đo sức mạnh tương đối của USD so với những đồng tiền mạnh khác - đã quay lại gần mức cao nhất, tương đương mức cuối tháng 2.
Có vài nguyên nhân chính.
Thứ nhất, với lãi suất USD tăng nhanh nhất kể từ đầu những năm 1980, và cao hơn đáng kể so với dự đoán hồi đầu năm, nhiều nền kinh tế lớn khác hụt hơi chạy theo.
Trong bối cảnh đó, việc USD tăng giá mạnh là không khó hiểu. Các nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch hưởng chênh lệch lãi suất quốc tế đang có xu hướng chuyển đổi từ đồng tiền có lãi suất tăng chậm hơn sang USD, và tất yếu là nhu cầu USD trên thị trường quốc tế tăng.
Thứ hai, ngoài vấn đề chênh lệch lãi suất, hoạt động "chốt lời" của các quỹ đầu tư đã mua USD lúc giá còn rẻ nay bán ra để thu về lợi nhuận (và cả "cắt lỗ" với những ai đặt cược sai rằng giá USD sẽ rớt tiếp trong tháng 8 và 9) góp phần kéo giá đồng tiền dự trữ hàng đầu thế giới tăng nhanh trở lại.
Nền kinh tế Mỹ vững mạnh và đồng USD "cứng cáp" hơn dự kiến là nguyên nhân nền tảng của các hoạt động kinh doanh ngoại hối này.
Chênh lệch lãi suất của VND và USD cũng góp phần vào áp lực tăng giá USD trên thị trường nội địa. Từ giữa tháng 7, người ta đã bắt đầu chú ý đến chênh lệch lãi suất USD - VND trên thị trường liên ngân hàng.
Lấy ví dụ vào giữa tháng 7, chênh lệch lãi suất USD - VND tại các kỳ hạn chủ chốt trên thị trường liên ngân hàng đã leo lên đỉnh mới, cao nhất có lúc gần 4,7% với lãi suất qua đêm và thấp nhất là 1,18% với lãi suất kỳ hạn 3 tháng.
Giới kinh doanh tiền tệ nhận thấy cơ hội kinh doanh chênh lệch lãi suất trong bối cảnh tỉ giá ít biến động khi đó.
Chênh lệch giữa lãi suất USD và VND kích thích các định chế tài chính vay VND ngắn hạn rồi chuyển đổi sang USD để cho vay lại.
Đây là hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi suất bình thường, nhưng góp phần tạo ra sức ép lên tỉ giá giao ngay, khi nhu cầu với USD trong ngắn hạn tăng lên (bán VND và mua USD, giữ để hưởng lãi suất cao).
Về cân bằng vĩ mô của nền kinh tế, những đồn đoán về chuyện tỉ giá sẽ biến động mạnh hay phá giá thì không quá đáng lo vào thời điểm này.
Đầu tiên, cán cân thanh toán cho thấy nhu cầu tổng thể của ngoại tệ sẽ ổn định.
Việt Nam vẫn đang trong trạng thái xuất siêu 8 tháng đầu năm (thặng dư thương mại tới 20 tỉ USD, chủ yếu là do tình hình xuất nhập khẩu gặp khó khăn chung và nhập khẩu suy giảm nhanh hơn xuất khẩu).
Đồng thời vẫn có dòng vốn FDI giải ngân ổn định, khoảng 13 tỉ USD trong 8 tháng đầu năm, xấp xỉ cùng kỳ năm ngoái.
Vì vậy không có sức ép lớn về nguồn cung USD nói chung trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Cộng với lượng kiều hối hằng năm luôn ổn định, bài toán cân bằng nguồn cung đô la Mỹ tổng thể cho nền kinh tế không đáng lo ngại.
Tuy nhiên, đó là cân bằng tổng thể. Những biến động ngắn hạn của dòng vốn do nhu cầu đầu tư, đầu cơ, hoặc tâm lý vẫn có thể tạo ra những cú sốc; kiểu như dù yếu tố cơ bản không đổi, nhưng nếu ai cũng đổ đi mua vàng, mua đất, mua gạo thì giá vàng, giá đất hay giá gạo vẫn có thể tăng ngoài kiểm soát, bất chấp nguồn cung không thật sự thiếu.
Về mặt này thì phải nhìn tới sự hay - dở trong khả năng điều hành của Ngân hàng Nhà nước.
Vì tỉ giá có thể tác động đến nhiều ngành kinh tế, đồng thời cũng có những mục tiêu về ổn định tỉ giá của Ngân hàng Nhà nước, nên sẽ luôn cần những can thiệp.
Câu trả lời là nhiều khả năng vẫn được, khi Ngân hàng Nhà nước còn nhiều công cụ tác động lên lãi suất ngắn hạn của VND, để hút tiền về, kéo lãi suất ngắn hạn của VND lên trở lại.
Cụ thể ngày 21-9, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành gần 10.000 tỉ đồng tín phiếu kỳ hạn 28 ngày với lãi suất trúng thầu 0,69%/năm, cao hơn đáng kể so với lãi suất bình quân liên ngân hàng 0,15%.
Đây là tín hiệu cho thấy Ngân hàng Nhà nước đang dùng một số công cụ tiền tệ để hút bớt lượng vốn ngắn hạn đang quá dồi dào trong hệ thống về (đến nỗi lãi suất liên ngân hàng về gần 0%), nhằm thu hẹp chênh lệch lãi suất ngắn hạn USD - VND, hạn chế bớt hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi suất của các tổ chức tài chính, góp phần bình ổn tỉ giá.
Nhưng đó mới là ý định và hành động của cơ quan quản lý.
Vẫn còn câu hỏi về tác dụng của hoạt động này - điều còn phụ thuộc vào diễn biến thị trường và tâm lý chung của giới đầu tư và đầu cơ.
Về dài hạn, Ngân hàng Nhà nước cần một chính sách tỉ giá linh hoạt hơn nữa và được phép "ít ổn định" hơn một chút, nhất là trong bối cảnh phức tạp của dòng vốn quốc tế mấy năm tới.
Biến động địa chính trị và cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc được dự đoán sẽ khiến dòng vốn quốc tế biến động nhiều hơn, ra vào nhanh và phức tạp hơn. Trong bối cảnh đó, nếu mỗi lần biến động Ngân hàng Nhà nước đều phải can thiệp để giữ một mức dao động quá cứng nhắc thì sẽ không phù hợp.
Xem thêm: mth.14302400110013202-aoh-uad-gnaoh-gnuhk-couc-2-man-05/nv.ertiout