Chiều 14-11, TAND Cấp cao tại Hà Nội mở phiên phúc thẩm, y án 13 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh Thủy (39 tuổi, cựu cán bộ Công an huyện Đan Phượng, Hà Nội) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Vụ án này xảy ra từ năm 2015. Quá trình giải quyết, bị cáo Thủy liên tục kêu oan.
Bị cáo Nguyễn Thị Thanh Thủy tại phiên tòa sơ thẩm. Ảnh: UT |
Bản án sơ thẩm cho thấy, chiều 7-5-2015, tổ công tác Công an quận Đống Đa (Hà Nội) kiểm tra một quán karaoke trên địa bàn, phát hiện sáu người không có giấy tờ tùy thân. Sau khi đưa nhóm này về trụ sở, công an xác định ba trong số sáu người là cán bộ thuộc Đội CSGT số 2, Phòng CSGT Hà Nội.
Qua test thử ma túy, sáu người đều cho kết quả âm tính, không phát hiện vi phạm. Công an quận Đống Đa liên hệ với Đội CSGT số 2 đến nhận bàn giao ba cán bộ CSGT nêu trên.
Lo sợ bị kỷ luật, ba cán bộ CSGT nhờ người tìm cách giúp mình không bị kỷ luật và điều chuyển công tác. Thông qua các mối quan hệ, họ được giới thiệu đến Nguyễn Thị Thanh Thủy. Thủy nhận lời, tiếp tục trao đổi và nhờ Phạm Hoài Nam (44 tuổi, cựu cán bộ Công an quận Cầu Giấy, Hà Nội) đi lo lót.
Sau nhiều lần gặp và nói chuyện, ba cán bộ công an cùng gia đình đưa cho Thủy tổng cộng hơn 1,3 tỉ đồng. Thủy đã đưa cho Nam 30 triệu đồng và 30.000 USD, giữ lại 660 triệu đồng.
Tháng 10-2015, căn cứ tính chất vi phạm vì bỏ vị trí công tác, Công an TP Hà Nội quyết định điều động ba cán bộ CSGT sang công tác tại Phòng Cảnh sát bảo vệ. Nhóm này thấy Thủy đã hứa hẹn và nhận tiền nhưng không giúp được nên gửi đơn tố giác đối với Thủy và Nam.
Tháng 7-2021, TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm, tuyên phạt Thủy 13 năm tù, Nam tám năm tù cùng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thủy kháng cáo kêu oan, Nam thừa nhận việc nhận 30.000 USD từ Thủy nên chấp nhận bản án.
Tại tòa phúc thẩm, Thủy giữ nguyên kháng cáo, đề nghị thay đổi kiểm sát viên vì cho rằng không đảm bảo khách quan. Bị cáo và luật sư bào chữa còn đề nghị triệu tập bị án Phạm Hoài Nam, ba cán bộ công an cùng nhiều người liên quan để thực hiện đối chất.
HĐXX không chấp nhận việc thay đổi kiểm sát viên vì không có căn cứ; những người mà bị cáo và luật sư muốn triệu tập đều đã có lời khai trong hồ sơ, quá trình xét xử nếu thấy cần thiết thì sẽ xem xét…
Bước sang phần xét hỏi, Thủy thừa nhận có được nhờ vả để giúp cho ba cán bộ công an không bị kỷ luật nhưng khi ấy đã trả lời rằng không giúp được vì không có khả năng. Thủy sau đó cho số điện thoại của Phạm Hoài Nam để tự liên hệ.
Nữ bị cáo nhiều lần khóc, cho rằng không hứa hẹn, không nhận tiền, cũng không lừa đảo ba cán bộ công an cùng gia đình họ. Duy nhất, chị gái của một trong ba cán bộ công an từng nhờ Thủy đưa một phong bì cho Nam. Thủy đồng ý, gặp và đưa cho Nam, không biết bên trong phong bì có gì.
Hồ sơ vụ án thể hiện Thủy từng có bản báo cáo và cam kết về việc hứa trả tiền cho gia đình ba cán bộ công an. Được hỏi về điều này, Thủy nói bị ép buộc viết, đã kêu oan rất nhiều lần nhưng chưa giải quyết.
Luật sư của Thủy thì cho rằng nhóm gia đình ba cán bộ công an chủ động tìm đến nhờ, bị cáo không dùng thủ đoạn gian dối hay hứa hẹn gì, chỉ giới thiệu bằng việc cho số điện thoại của Nam. Hơn thế, nhóm ba cán bộ công an và gia đình đã bỏ tiền để lo lót việc không bị kỷ luật…
Luật sư đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, làm rõ có việc lừa đảo hay không, có hay không dấu hiệu đưa hối lộ như đã nêu. Ngược lại, đại diện VKS đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghị án, HĐXX nhận định tòa sơ thẩm tuyên án là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Thủy và Nam dù không có nhiệm vụ, quyền hạn nhưng vẫn nhận tiền và hứa hẹn để giúp ba cán bộ công an không bị kỷ luật.
Bị cáo kêu oan nhưng không có chứng cứ gì mới, cho rằng bị ép viết bản báo cáo và cam kết nhưng không đưa ra được bằng chứng chứng minh… Do vậy, HĐXX bác kháng cáo, y án 13 năm tù.
Đặc biệt, HĐXX cho rằng nhóm ba cán bộ công an và gia đình đã tập hợp tiền để đưa cho Thủy và Nam lo lót không bị kỷ luật và tước quân tịch. Hành vi này có dấu hiệu đưa hối lộ và môi giới hối lộ.
Tuy nhiên, xét trong phạm vi vụ án đang xét xử, cũng như việc không ảnh hưởng đến bản chất hành vi lừa đảo của bị cáo, HĐXX kiến nghị VKS và cơ quan điều tra cấp sơ thẩm xác minh, làm rõ, nếu có vi phạm cần xử lý nghiêm.