Trong khi đó, nỗ lực giảm phát thải các-bon của thế giới là 0,5%, một khoảng cách lớn so với tỷ lệ giảm phát thải các-bon 15,2% cần thiết để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5 độ C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp.
Nghiên cứu cho thấy 9 trong số 13 nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương đã giảm phát thải các-bon vào năm 2021, tuy nhiên, chỉ có New Zealand và Việt Nam vượt qua mục tiêu giảm phát thải khí các-bon dựa trên Mục tiêu đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC). New Zealand giảm cường độ các-bon nhiều nhất ở mức 6,7% vào năm 2021, tiếp theo là Malaysia (4,0%), Việt Nam (3,4%) và Australia (3,3%).
Các mục tiêu cấp toàn cầu và cấp quốc gia cần được chuyển hóa vào chính sách. Kết quả tích cực từ các chính phủ châu Á - Thái Bình Dương đó là một số chính sách đã được thực thi.
Tuy nhiên, để duy trì mục tiêu hạn chế sự nóng lên của toàn cầu ở mức 1,5°C, chính phủ các nước trong khu vực cần phải có những chính sách mang tính chất quyết định, bao gồm kết hợp các mục tiêu năng lượng tái tạo với các kế hoạch loại bỏ dần sử dụng than đá; thúc đẩy sử dụng năng lượng hiệu quả với chính sách điện khí hóa; tích hợp chính sách định giá các-bon kết hợp với đổi mới, cũng như mở rộng quy mô công nghệ sạch và đảm bảo quá trình chuyển đổi hợp lý.
Nhìn vào biểu đồ để thấy mức độ tiêu thụ năng lượng, nhiên liệu và phát thải các-bon của các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương trong 3 năm 2001, 2011 và 2021. Các màu cam, hồng và nâu thể hiện ba mức độ các quốc gia khu vực này thực hiện giảm phát thải.
Biểu đồ mức độ phát thải khí các-bon của các nước châu Á -Thái Bình Dương. |
Có tiến triển (màu cam)
Các nền kinh tế có các nỗ lực phù hợp với mục tiêu của mình: Úc, Trung Quốc, Malaysia, New Zealand và Hàn Quốc và có thể bao gồm Thái Lan. Các quốc gia này đã cho thấy sự tiến bộ đáng khích lệ về hướng đi và tốc độ. Hầu hết các quốc gia vẫn tạo ra nhiều khí thải các-bon, nhưng đang duy trì động lực phát triển đầy hứa hẹn.
Chậm trễ trong tiến độ (màu hồng)
Một số nền kinh tế chưa có các hoạt động nhất quán và chậm trễ trong quá trình giảm phát thải các-bon trong thập kỷ vừa qua là: Ấn Độ, Indonesia và Nhật Bản.
Phụ thuộc vào than đá (màu nâu)
Một số nền kinh tế đang vẫn còn ở khá xa đích đến: Bangladesh, Philippines, Pakistan và Việt Nam. Các nền kinh tế đang phát triển này bắt đầu với cường độ các-bon tương đối thấp. Sự phát triển kinh tế của các nước này trong thập kỷ qua được thúc đẩy một phần bởi than đá và đây là những rủi ro lớn nhất khi quốc gia bị mắc kẹt giữa tài nguyên cạn kiệt và biến đổi khí hậu.
Trong khi các nhà hoạch định chính sách đang chịu áp lực để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng với mức giá hợp lý, vẫn còn đó cơ hội kinh doanh dành cho các khoản đầu tư vào Net Zero nhờ nguồn lực đổi mới. Năng lượng tăng giá và khủng hoảng nguồn cung đã tạo nên xu hướng đổ xô vào nhiên liệu hóa thạch trong ngắn hạn, nhưng đồng thời cũng tăng cường cơ hội đầu tư cho năng lượng tái tạo trong dài hạn.
Tương tự, các động lực kinh doanh về hiệu quả năng lượng đã tăng lên, đặc biệt trong các lĩnh vực tiêu thụ nhiều năng lượng và các ngành công nghiệp khó giảm thiểu năng lượng tiêu thụ. Các doanh nghiệp sẽ tìm cách tiêu thụ năng lượng ít hơn, sử dụng năng lượng hiệu quả hơn, báo hiệu một bước ngoặt trong cách chúng ta suy nghĩ về năng lượng.
Thu hẹp khoảng cách từ tham vọng tới hành động sẽ là một bước ngoặt để châu Á - Thái Bình Dương đạt được lợi thế cạnh tranh trong cuộc đua toàn cầu về Net Zero.