Viết Quốc ca khi mới 21 tuổi, Văn Cao cũng chịu nhiều lận đận với Nhân văn - Giai phẩm. Nhưng rồi Văn Cao qua 100 năm như ngọc quý mỗi ngày thêm lấp lánh. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Văn Cao, Tuổi Trẻ khởi đăng loạt bài về bậc nhạc sĩ tài hoa có số phận thăng trầm đặc biệt này.
Khi người nghe nhạc Việt đầu những năm 1940 đang say đắm với thế giới thần tiên mộng ảo của Thiên Thai, Suối mơ, Trương Chi, Bến xuân... thì đồng thời một Văn Cao hào hùng, mạnh mẽ cũng xuất hiện với Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Chiến sĩ Việt Nam, và đặc biệt là Tiến quân ca được chọn làm Quốc ca.
"Có những con đường anh Văn đã đi"
Lãng mạn vô cùng và cũng hùng dũng ít ai sánh bằng. Điều gì đã làm nên một Văn Cao đa dạng, rộng dài trong âm nhạc đến thế nếu không phải là một tài năng thiên bẩm xuất chúng.
Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15-11-1923, mất ngày 10-7-1995. Ông quê gốc ở huyện Vụ Bản, Nam Định nhưng lớn lên ở thành phố cảng Hải Phòng, nơi mà đầu thế kỷ 20 đã là cái nôi nuôi dưỡng nhiều anh tài văn nghệ như nhạc sĩ Lê Thương, Hoàng Quý, Tô Vũ, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhà thơ Nguyễn Đình Thi, nhạc sĩ Đỗ Nhuận...
Thuở nhỏ, Văn Cao học ở Trường tiểu học Bonnal (nay là Trường THPT Ngô Quyền, Hải Phòng), sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef. Gia đình sa sút nên ông nghỉ học sau khi hết năm thứ hai bậc thành chung.
Tuy thế hai năm ngắn ngủi ở trường dòng đã giúp Văn Cao được tiếp xúc với âm nhạc và hội họa, làm nền tảng để tiếp tục tự học không ngừng.
Văn Cao gia nhập làng văn nghệ trước tiên bằng một vài truyện và kịch ngắn đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy. Nhưng trước những tên tuổi văn chương sáng chói lúc bấy giờ như Nhất Linh, Thạch Lam, Thế Lữ, Vũ Bằng, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài và đặc biệt là Nam Cao, ông quyết định rẽ sang âm nhạc.
Buồn tàn thu là bài hát đầu tiên ông ra mắt công chúng năm 1939 và được đón nhận rộng rãi, báo trước một tài năng vừa xuất hiện. Quả nhiên những ca khúc tiếp theo như Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ và Bến xuân ra đời đã "gây một ảnh hưởng lớn đến tinh thần thưởng ngoạn âm thanh của giới trí thức Hà Nội" (Tạ Tỵ).
"Nhạc Văn Cao đã vượt thoát qua cửa ải được trấn giữ lâu ngày bởi Lê Thương, Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn, Hoàng Quý... Những nhạc phẩm của Văn Cao quá mới và hay, so với thời gian lúc đó nhất là lời ca...
Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ...
Lời nhạc Văn Cao đặt như thơ, tứ nhạc phong phú, nét nhạc thanh thoát dìu người thưởng thức đi vào cõi mộng êm đềm, quấn quýt giữa sự giao duyên của thơ và nhạc", họa sĩ Tạ Tỵ, người cùng thời, từng gần gũi với Văn Cao, không tiếc lời ngợi ca thứ âm nhạc toàn bích từ giai điệu đến ca từ.
Trong hồi ký Phạm Duy, người nhạc sĩ tài hoa này cũng dành nhiều trang ngợi ca hết lời âm nhạc Văn Cao. Trịnh Công Sơn thì gọi Văn Cao là "ông hoàng" bởi sự sang trọng trong âm nhạc, bởi chất thần tiên bay bổng, so với mình là "một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi" trên cánh đồng ca khúc.
Không dừng lại ở âm nhạc, năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền), theo học dự thính Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Triển lãm duy nhất tại Salon Unique tổ chức tại nhà Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội, năm 1944, những bức tranh của Văn Cao gây chú ý, được báo chí ngợi khen, đặc biệt tác phẩm Cuộc khiêu vũ những người tự tử (Le Bal aux suicidés).
Nhưng tất cả âm nhạc và hội họa ấy đều không níu chặt được Văn Cao. Chàng nghệ sĩ có vóc dáng bé nhỏ, tính tình trầm lắng ấy quyết định dấn thân thêm một con đường khác, con đường anh tin sẽ cùng góp phần mang lại độc lập cho dân tộc mình, tự do và cơm áo cho đồng bào mình, cho mẹ, cho các cháu, các em mình đang chết dần vì đói.
Tiến quân ca - một cuộc đời mới của Văn Cao
Họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao, kể bố mình được ông Vũ Quý giác ngộ cách mạng cùng một số anh em nghệ sĩ khác như Nguyễn Đình Thi trong tổ chức thanh niên yêu nước của Hải Phòng. Họ được Vũ Quý phân công rải truyền đơn, diễn thuyết, hoạt động cách mạng.
Vũ Quý nhìn thấy tài năng âm nhạc của Văn Cao và hướng Văn Cao đến sáng tác các ca khúc cách mạng. Ông gợi ý thanh niên đang thiếu các bài ca khơi gợi lòng yêu nước. Văn Cao vốn từ bé đã rất ghét sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp.
Hiểu ý Vũ Quý, ông sáng tác các ca khúc về những chiến công của cha ông để khơi gợi lòng yêu nước như các bài Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng... Từ thứ âm nhạc thần tiên bay bổng, ông xen kẽ thêm những bài hành khúc dễ hát, dễ thuộc hơn.
Năm 1944, giữa cơn đói nghèo thê thảm đến tuyệt vọng của những ngày lang thang ở Hà Nội phải nhờ tới bạn bè họa sĩ nuôi cơm và giúp phương tiện vẽ tranh, trong khi mẹ già và các cháu ở quê cũng đang gắng cầm hơi, Văn Cao gặp lại Vũ Quý lúc này cũng đang hoạt động ở Hà Nội với vai trò quyền bí thư Hà Nội.
Họ gặp nhau trước Ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội), cuộc gặp quyết định một cuộc đời mới của Văn Cao. Nhiệm vụ đầu tiên với vai trò là một nhà hoạt động cách mạng mà Văn Cao được giao là "Khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta".
"Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này", Văn Cao viết trong hồi ký về nhiệm vụ đầu tiên của mình.
Nhưng rồi nhiệm vụ khó khăn cũng hoàn thành sau nhiều ngày Văn Cao vật lộn trên căn gác 45 Nguyễn Thượng Hiền đêm đêm thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói đi về phía Khâm Thiên và tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu ăn.
Sáng tác mới làm ông Vũ Quý nở nụ cười thật hài lòng trên khuôn mặt xạm đen. Nguyễn Đình Thi cười hồn nhiên, chúc mừng Văn Cao và rủ bạn: "Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt Minh xem sao?".
Giữ lời hứa, sau đó Nguyễn Đình Thi viết bài Diệt phát xít, còn Văn cao viết thêm Chiến sĩ Việt Nam, hai bài hát được mang ra cùng bài Tiến quân ca để Bác Hồ chọn làm Quốc ca vào tháng 8-1945.
Bài hát nhanh chóng lan rộng trong lòng quần chúng bởi nó không phải chỉ là tiếng "bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa" của những đoàn chiến sĩ áo chàm mà là cả dòng thác lũ những bước chân của một đất nước đang chuyển mình để bước vào một vận hội mới.
**************
Từ chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ đã chọn Tiến quân ca làm Quốc ca cho nước Việt Nam độc lập sắp trở thành hiện thực.
>> Kỳ tới: Chuyện Bác Hồ chọn Quốc ca của Văn Cao
TTCT - Văn Cao thuộc lớp người cuối cùng của Thơ mới và bài thơ quan trọng nhất của ông trước tháng 8-1945 chắc chắn phải là Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc.