Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030.
Mục tiêu chung của Đề án là hình thành một triệu ha vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững của ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030, diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt một triệu ha.
Về canh tác bền vững, giảm lượng lúa giống gieo sạ xuống dưới 70 kg/ha, giảm 30% lượng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học. Giảm 20% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống.
100% diện tích áp dụng ít nhất một quy trình canh tác bền vững, tiêu chuẩn sản xuất lúa bền vững (Sustainable Rice Platform - SRP), tưới khô xen kẽ và các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt được chứng nhận và được cấp mã số vùng trồng.
Về tổ chức sản xuất, 100% diện tích sản xuất vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp có liên kết giữa doanh nghiệp với tổ hợp tác, hợp tác xã hoặc các tổ chức của nông dân trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tỉ lệ cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 70% diện tích. Trên 1 triệu hộ áp dụng quy trình canh tác bền vững.
Về bảo vệ môi trường và tăng trưởng xanh, tỉ lệ thất thoát sau thu hoạch dưới 8%; 100% rơm được thu gom khỏi đồng ruộng và được chế biến tái sử dụng. Giảm trên 10% lượng phát thải khí nhà kính so với canh tác lúa truyền thống.
Về thu nhập người trồng lúa, giá trị gia tăng, giá trị gia tăng trong chuỗi lúa gạo tăng 40%, trong đó tỉ suất lợi nhuận người trồng lúa đạt trên 50%.
Về xây dựng thương hiệu và xuất khẩu, lượng gạo xuất khẩu mang thương hiệu chất lượng cao, phát thải thấp chiếm trên 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh.
Đề án được triển khai tại 12 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (không bao gồm tỉnh Bến Tre) với diện tích 1 triệu ha. Đề án sẽ triển khai theo 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ năm 2024 – 2025, giai đoạn 2 từ 2026 -2030.
Có 4 tiêu chí lựa chọn vùng tham gia Đề án, bao gồm tiêu chí về quy hoạch, cơ sở hạ tầng; tiêu chí canh tác bền vững, tăng trưởng xanh; tiêu chí về tổ chức sản xuất; tiêu chí doanh nghiệp tham gia liên kết.
Bộ NN&PTNT chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vùng Đồng bằng sông Cửu Long hướng dẫn tổ chức triển khai Đề án. Phối hợp với các địa phương, doanh nghiệp xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện Đề án. Tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ hàng năm. Tổ chức sơ kết thực hiện Đề án vào năm 2025 và tổng kết tình hình thực hiện Đề án vào năm 2030.
Bộ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, triển khai thực hiện quy định về đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm phát thải khí nhà kính phục vụ thực hiện Đề án, phù hợp với quy định quốc tế và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Xây dựng, đề xuất thí điểm chính sách và cơ chế chi trả tín chỉ carbon dựa vào kết quả cho vùng chuyên canh.
Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá (M&E) dựa trên các chỉ số đầu ra của Đề án và các mục tiêu cụ thể. Bộ chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan làm việc và tiếp nhận nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức quốc tế.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì báo cáo cơ quan có thẩm quyền xác định vốn đầu tư ngân sách nhà nước chi cho đầu tư phát triển theo ngành, lĩnh vực trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm để thực hiện các dự án theo quy định của Luật Đầu tư công.
Căn cứ khả năng cân đối của ngân sách trung ương, trên cơ sở đề xuất của Bộ NN&PTNT và các bộ, ngành liên quan, Bộ Tài chính chủ trì trình cấp có thẩm quyền bố trí kinh phí sự nghiệp từ ngân sách trung ương để thực hiện các chế độ, chính sách được cấp có thẩm quyền ban hành theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và pháp luật liên quan.