Chiều 27/11, TAND cấp cao tại TPHCM đã quyết định bác kháng cáo, tuyên y án 12 năm tù đối với bị cáo Trần Hữu Kiển (sinh năm 1981, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Theo bản án sơ thẩm, bà Trương Thị Thu T. (ngụ tại Bến Tre) là đương sự trong một vụ chia di sản thừa kế. Trong vụ án này, Tòa phúc thẩm tuyên cho bà T. và những người trong gia đình được chia số tiền thừa kế khoảng 6 tỷ đồng.
Sau khi bản án có hiệu lực, Cục Thi hành án dân sự TPHCM đã ban hành quyết định thi hành bản án. Để thương lượng, thỏa thuận chia tiền với các đồng thừa kế khác theo bản án nêu trên, bà T. đã đến gặp luật sư Trần Hữu Kiển tại văn phòng luật sư ở Bến Tre để ký hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Theo hợp đồng này, bà T. ủy quyền cho ông Kiển được đại diện thương lượng với các đồng thừa kế khác trong vụ chia thừa kế.
Đến năm 2014, bà T. được chia số tiền thừa kế hơn 1,3 tỷ đồng. Số tiền này được chuyển vào tài khoản của ông Trần Hữu Kiển. Tuy đã rút toàn bộ số tiền để chi tiêu hết nhưng ông Kiển vẫn nói với bà T. là chưa thỏa thuận được với các đương sự khác trong việc chia tiền.
Do tin tưởng ông Kiển nên bà T. vẫn tiếp tục ký nhiều văn bản thỏa thuận khác về việc để ông Kiển đại diện cho bà. Ông Kiển còn đưa những thông tin không đúng sự thật để lừa dối bà T. như sẽ khiếu nại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm…
Đến năm 2016, bà T. mới biết đã bị luật sư Kiển lừa dối không chịu trả tiền. Bà đã thông báo chấm dứt, hủy bỏ việc ủy quyền đối với ông Trần Hữu Kiển, đồng thời làm đơn tố cáo gửi cơ quan điều tra.
Xử sơ thẩm, bị cáo Kiển bị TAND tỉnh Bến Tre tuyên phạt mức án 12 năm tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sau bản án sơ thẩm, bị cáo Kiển kháng cáo kêu oan, phía bị hại kháng cáo yêu cầu tính thêm phần lãi.
Tại tòa, bị cáo Kiển một mực kêu oan và cho rằng mình không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo cho rằng quan hệ giữa bị cáo và bà T. là quan hệ giao dịch dân sự, cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm đã hình sự hóa quan hệ dân sự. Đồng thời, bỏ qua nhiều chứng cứ quan trọng của vụ án nhằm buộc tội bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng căn cứ vào hồ sơ vụ án không đủ căn cứ cáo buộc bị cáo về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ đó, luật sư đề nghị HĐXX hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Luật sư bảo vệ cho bị hại đồng ý với bản án sơ thẩm đã cáo buộc bị cáo Kiển, đồng thời, bị hại đề nghị tính tiền lãi đối với số tiền bị cáo Kiển đã chiếm đoạt.
Đối đáp lại quan điểm của luật sư các bên và bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Kiển là đúng người, đúng tội, không oan sai. Đối với kháng cáo của bị hại, Viện Kiểm sát nêu yêu cầu tính lãi số tiền bị cáo đã chiếm đoạt nhưng đây là vụ án hình sự nên đề nghị không xem xét lãi. Từ đó, Viện Kiểm sát đề nghị HĐXX bác toàn bộ kháng cáo của bị cáo và bị hại.
Sau khi nghị án, HĐXX nhận định bị cáo Kiển đã dùng nhiều thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của T. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ đó, HĐXX xác định bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Kiển là đúng người, đúng tội, không oan sai. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện hành vi phạm tội một cách tinh vi. Khi lượng hình, HĐXX có cân nhắc các tình tiết, tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo Kiển.
Đối với kháng cáo của bị hại, HĐXX cho rằng không có căn cứ xem xét. Từ những nhận định trên, HĐXX quyết định bác kháng cáo kêu oan của bị cáo Kiển, và kháng cáo của bị hại, tuyên y án sơ thẩm.
Xuân Duy
Xem thêm: mth.25510257172110202-uhc-naht-neit-taod-meihc-us-taul-uv-maht-os-na-y/taul-pahp/nv.moc.irtnad