Trước cơn bão điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới, nhiều người đặt câu hỏi về tác động của nó tới nền kinh tế Việt Nam ở những lĩnh vực như chứng khoán, tỉ giá, dòng vốn đầu tư... sẽ như nào.
Fed siết chặt chính sách tiền tệ, dự kiến tăng lãi suất
Kết thúc cuộc họp ngày 15.12 của Ủy ban Thị trường mở liên bang (FOMC) - cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ của Fed - cho biết sẽ bắt đầu giảm mua tài sản từ tháng 1 năm 2022 (mỗi tháng giảm 30 tỉ USD) và sẽ kết thúc việc mua trái phiếu thời kỳ đại dịch vào cuối tháng 3 hoặc tháng 4 năm 2022.
Các quan chức Fed dự kiến có 3 lần tăng lãi suất vào năm 2022, nâng lãi suất từ 0% - 0,25% lên dần 0,75% - 1%. Cơ quan này dự kiến tiếp tục tăng 3 lần vào năm 2023 và 2 lần vào năm 2024.
Quyết định này được đưa ra trước lo ngại lạm phát sẽ kéo dài hơn dự kiến. Chỉ số CPI của Mỹ tháng 11 năm 2021 tăng 6,8% so với cùng kỳ, cao nhất từ năm 1982, dự báo bình quân cả năm 2021 sẽ là 3,6%. Ngoài ra, nền kinh tế Mỹ cũng đang tiến triển tích cực, tiệm cận mục tiêu tối đa hoá việc làm.
Trong diễn biến khác, Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) tuyên bố sẽ kết thúc chương trình thu mua tài sản khẩn cấp trong đại dịch (PEPP) trị giá 1.850 tỉ Euro (2.100 tỉ USD) vào tháng 3 năm 2022. Song ECB vẫn sẽ duy trì chương trình mua tài sản được thực hiện trước đó của mình.
Đáng chú ý, ECB thông báo sẽ giữ nguyên lãi suất ở mức thấp kỷ lục hiện nay. Cụ thể, lãi suất trên cơ sở tiền gửi chính giữ nguyên là -0,5%, lãi suất tái cấp vốn chuẩn là 0% và lãi suất cho vay cận biên là 0,25%.
5 tác động đến nền kinh tế Việt Nam
Việc Fed cũng như những ngân hàng trung ương (NHTW) lớn trên thế giới tăng lãi suất, TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV - chỉ ra ít nhất là 5 tác động chính với mức độ khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Một là, đồng USD tăng giá với lý do chính là kinh tế Mỹ phục hồi khá tốt và lãi suất đồng USD chuẩn bị tăng. Điều này khiến đồng nội tệ của các nước (nhất là thị trường mới nổi) mất giá tương ứng, cộng với lạm phát nội tại đang ở mức cao, khiến nhiều NHTW các nước cũng sẽ tăng lãi suất. Một số NHTW như Hàn Quốc, Ấn Độ, Brazil, Nga… đã hành động theo hướng này.
Hai là, thị trường chứng khoán toàn cầu, nhất là Mỹ, EU và một số thị trường Châu Á (không loại trừ Việt Nam) tăng điểm, phản ánh kỳ vọng kinh tế thế giới đang phục hồi khá tốt. Tuy nhiên, đây chỉ là xu hướng tạm thời vì thị trường sẽ có những điều chỉnh khi tâm lý nhà đầu tư ổn định hơn.
Riêng về khối ngoại bán ròng mạnh gần 56.000 tỉ đồng khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu năm đến nay, các chuyên gia cho rằng không nên quá lo lắng.
Dù khối ngoại liên tục bán ròng và chốt lời, nhưng dòng tiền không rời bỏ thị trường mà liên tục tìm các cơ hội mới. Ngoài ra, tác động từ "Tây bán" hiện không quá lớn trong bối cảnh thanh khoản hầu hết đến từ nhà đầu tư cá nhân.
Ba là, tỉ giá biến động nhẹ do đồng USD tăng. Xu hướng này có thể còn tiếp diễn trong nửa đầu năm tới. Với Việt Nam, tỉ giá có thể tăng nhẹ, nhưng không nhiều do kinh tế nước ta đang phục hồi (tăng trưởng khoảng 2% năm 2021 và sẽ phục hồi lên mức 6,5% - 7% nếu Việt Nam kiểm soát tốt dịch bệnh và thực hiện thành công Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội).
Bên cạnh đó, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp (CPI tăng khoảng 2% năm 2021), khả năng sẽ tăng lên mức 3,4% - 3,7% năm 2022. Cung - cầu ngoại tệ cơ bản ổn và cán cân thanh toán tiếp tục thặng dư.
Bốn là, lãi suất USD tăng đồng nghĩa với việc nghĩa vụ trả nợ bằng USD của nhiều quốc gia bị tăng lên, nhất là trong bối cảnh vay nợ của nhiều nước nóng dần trong thời gian qua.
Nợ công toàn cầu tăng nhanh, từ mức 84% GDP năm 2019 lên 101,6% GDP năm 2020 và 104,8% GDP năm 2021. Nợ doanh nghiệp và hộ gia đình cũng tăng nhanh 3 năm qua. Đây là rủi ro nợ mà nhiều nước quan tâm.
Với Việt Nam, tác động này không nhiều do nước ta đang giảm dần vay nợ nước ngoài. Theo đó, nợ nước ngoài hiện đang ở mức 38,8% GDP đã điều chỉnh, giảm so với mức 42% GDP bình quân giai đoạn 2010 - 2019.
Theo Bộ Tài chính, vay nợ nước ngoài gồm nhiều loại ngoại tệ khác nhau, thời hạn dài (bình quân là 13,8 năm), lãi suất thấp (bình quân 1,35%/năm).
Năm là, có thể xảy ra hiện tượng đảo chiều dòng vốn đầu tư gián tiếp như đã từng xảy ra trước đây. Dòng tiền có xu hướng rút ra từ thị trường mới nổi vì đồng tiền nước đó mất giá và quay về thị trường Mỹ, EU… nơi lãi suất tăng lên và cũng là để "tạm thời trú ẩn" rủi ro.
Theo công ty phân tích dữ liệu CEIC, dòng tiền đầu tư ròng đang tăng trở lại từ quý II năm 2021. Tuy nhiên, hiện tượng rút ra được dự báo sẽ không nhiều như năm 2013 vì chương trình thu hẹp nới lỏng định lượng của Fed đã được dự báo trước.
Xem thêm: odl.691689-man-teiv-et-hnik-nen-ned-ig-gnouh-hna-taus-ial-gnat-def/et-hnik/nv.gnodoal