Năm 2020, 4.132 ca mắc ung thư cổ tử cung mới
Ung thư cổ tử cung là loại ung thư phổ biến thứ 4 ở phụ nữ. Năm 2020, ước tính khoảng 604.127 ca, chiếm 6,5% tổng số ca ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới. Ung thư cổ tử cung cũng là 1 trong 3 bệnh ung thư hàng đầu ở phụ nữ dưới 45 tuổi tại 145 quốc gia trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung là một trong 5 ung thư thường gặp ở nữ. Ước tính năm 2010 có 5.664 ca mới mắc và hơn 3.000 ca tử vong; năm 2020 khoảng 4.132 ca mắc mới, với hơn 2.223 trường hợp tử vong. Theo Tổ chức ung thư toàn cầu (GLOBOCAN), tỷ lệ mắc mới ung thư cổ tử cung ở Việt Nam năm 2020 là 6,6/100.000 phụ nữ, chiếm 2,3% tỷ lệ ung thư chung. Tỷ lệ tử vong là 3,4/100.000 người. Carcinôm tế bào gai (SCC) là kiểu mô học phổ biến nhất, chiếm khoảng 80 đến 90% ung thư cổ tử cung, còn lại 10 đến 20% ung thư cổ tử cung là carcinôm tuyến.
Trong các yếu tố vi sinh, ký sinh như nhiễm Trichomonas, nhiễm Herpes Simplex II... thì nhiễm HPV (vi rút Human Papilloma) là yếu tố nguy cơ cao nhất, có thể coi là thủ phạm chính gây ung thư cổ tử cung.
Nhiễm HPV là bệnh nhiễm vi rút thường gặp nhất của cơ quan sinh dục, cho tới nay đã xác định được hơn 200 tuýp HPV. Các tuýp HPV có nguy cơ cao sinh ung thư là 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58... Trong đó 2 tuýp HPV nguy hiểm là 16 và 18 liên quan đến 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung. Loại nguy cơ thấp thường không sinh ung thư như tuýp 6, 11, 42, 43, 44...
HPV có thể lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp giữa da với da, da với niêm mạc và niêm mạc với nhau. Sự lây truyền có liên quan đến quan hệ tình dục, cả đường âm đạo và đường hậu môn. Ngoài ra, lây truyền cũng có thể xảy ra sau hoạt động tình dục không xâm nhập như quan hệ tình dục bằng miệng - bộ phận sinh dục. Ít phổ biến hơn là HPV có thể truyền từ mẹ sang trẻ sơ sinh trong khi sinh.