Bà Ph. trao đổi với bác sĩ Thái trong một lần tái khám mới đây - Ảnh: XUÂN MAI
Bà Ph. đã trải qua 50 năm mắc bệnh trĩ và chưa một lần đến cơ sở y tế khám bệnh.
Cứ tưởng biến chứng trĩ
Khoảng cuối năm 2019, cứ ăn xong là bà Ph. đi ngoài có máu. Bà Ph. nghĩ bụng "chắc do biến chứng của bệnh trĩ". Nửa tháng sau, bà được các con đưa đến một phòng khám tại quận 1. Tại đây, bác sĩ kê đơn thuốc cho bà về uống nhưng các triệu chứng trên không hề thuyên giảm.
Bà tiếp tục đến một phòng khám khác gần nhà để tiến hành nội soi, bác sĩ tại đây phát hiện bà có một khối u tại trực tràng có kích thước to, nguy hiểm đến tính mạng. Bác sĩ này yêu cầu bà cần đến bệnh viện tuyến cuối mổ gấp.
Đúng như chẩn đoán, kết quả sinh thiết của một bệnh viện lớn tại TP.HCM xác định bà Ph. bị ung thư trực tràng, không liên quan đến bệnh trĩ, cần phẫu thuật gấp và khó giữ được hậu môn. Vì lo mẹ tuổi cao sức yếu, nếu lo lắng quá mức sẽ khiến tinh thần suy sụp, nên các con cháu trong nhà đã giấu kín chuyện bà bị ung thư trực tràng, mà chỉ nói bà có u lành ở trực tràng và cần phải mổ.
Bác sĩ CKII Phan Văn Thái - trưởng khoa ngoại tổng quát Bệnh viện FV - cho biết qua thăm khám, xét nghiệm, chẩn đoán bà Ph. bị ung thư trực tràng thấp (gần hậu môn). "Đó là khối u trực tràng ác tính, lớn như quả chanh, xâm lấn ra bên ngoài, xếp giai đoạn u T3.
Với trường hợp này, đa phần sẽ có chỉ định cắt bỏ hậu môn và mở thông đại tràng ra da ở bụng vĩnh viễn, nhưng chúng tôi đã dùng kỹ thuật đo đạc chính xác bờ khối u, áp dụng xạ trị trước mổ và kỹ thuật phẫu thuật tỉ mỉ để điều trị cho bệnh nhân nhằm vừa đạt nguyên tắc trị ung thư vừa giữ lại chức năng bài tiết tự nhiên, đảm bảo chất lượng sống sau này", bác sĩ Thái chia sẻ.
Khi nghe bác sĩ Thái nói rằng cần phải trải qua hai lần mổ, lần đầu mổ lấy sạch bệnh và phải đặt hậu môn nhân tạo tạm vài tuần sau sẽ mổ lần hai đóng lại hậu môn nhân tạo, bà Ph. từ chối và định để bệnh tới đâu hay tới đó. Nhưng nhờ các con hết lòng động viên và bác sĩ tư vấn tận tâm, bà Ph. đồng ý phẫu thuật theo phác đồ.
Cắt hết u ác tính, giữ được hậu môn
Do khối u to, đã xâm lấn và gia đình rất mong muốn bà Ph. không phải cắt bỏ mất hậu môn nên trước ca mổ, bác sĩ Thái đã hội chẩn liên khoa, tiến hành xạ trị "gom" khối u lại, và quan trọng là tăng khả năng giữ lại hậu môn cho bệnh nhân. Nhờ vào kỹ thuật xạ trị VMAT có độ chính xác cao, kết quả xạ trị đạt như mong đợi, tỉ lệ giữ được hậu môn sau phẫu thuật lên đến 90%.
Vài ngày sau, bệnh nhân bước vào cuộc mổ nội soi lần thứ nhất kéo dài 5 tiếng để cắt bỏ trực tràng và một phần cơ thắt trong hậu môn, khâu nối đại tràng với ống hậu môn. Trong lần mổ này, bác sĩ Thái đã mở hậu môn nhân tạo tạm thời cho bệnh nhân, nhằm tránh xì rò miệng nối.
"Vì khối u nằm sâu nên quá trình mổ nội soi từ ổ bụng phải cần đào sâu tới ống hậu môn. Đây là một kỹ thuật quan trọng, đòi hỏi bác sĩ phải mổ đúng lớp, nếu bị lấn vào trong gây rách lá bao mỏng quanh trực tràng, sẽ phạm vào vùng có nguy cơ chứa tế bào u; còn nếu trật ra ngoài thì tổn thương mạch máu. Bước sang quá trình mổ từ ống hậu môn, kỹ thuật cắt một phần cơ thắt hậu môn phải đảm bảo tỉ mỉ, chính xác để làm sao diện cắt cách u đủ xa đảm bảo sạch tế bào u, phần hậu môn giữ lại không bị hư hại đảm bảo chức năng tốt sau phẫu thuật" - bác sĩ Thái chia sẻ.
Dù ở tuổi xế chiều nhưng bà Ph. nhanh chóng bình phục, không cảm thấy đau đớn sau phẫu thuật. Bà được bác sĩ cho về nhà nghỉ dưỡng 2 tuần trước khi quay trở lại bệnh viện để mổ lần 2 đóng hậu môn nhân tạo. Ca mổ lần 2 đơn giản hơn và bà cũng đã nhẹ nhàng vượt qua.
Sau nhiều lần tái khám, bà Ph. và chị Châu (con gái bà Ph.) không giấu được niềm vui khi bác sĩ Thái cho biết sức khỏe của bà ngày càng tốt, không có dấu hiệu tái phát. Đến nay số lần bà Ph. đi ngoài cũng giảm hẳn, từ 1-3 lần/ngày (so với 10 lần/ngày trước đó). Hằng ngày bà Ph. chỉ cần tập vật lý trị liệu theo hướng dẫn.
Dễ nhầm lẫn bệnh khác
Theo Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 3 thế giới và thứ 5 ở Việt Nam về tần suất phổ biến.
Ung thư trực tràng ở giai đoạn sớm thường không có triệu chứng hoặc triệu chứng mơ hồ, dễ gây nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Vì vậy, để có thể phát hiện được ở giai đoạn sớm, cần chủ động đi tầm soát, khám sức khỏe định kỳ, đặc biệt là với các đối tượng có nguy cơ.
Y học tiên tiến giúp mổ chính xác
Những năm gần đây, y học phát triển với sự trợ giúp đắc lực của chẩn đoán hình ảnh đặc biệt là MRI vùng chậu, giúp đo được chính xác vị trí xâm lấn của u, từ đó tính được chính xác vị trí vừa đảm bảo an toàn về mặt ung thư học (cắt trọn u, diện cắt dưới u 10mm) vừa bảo tồn tối đa chức năng các cơ quan trong điều trị bệnh ung thư trực tràng thấp.
Bên cạnh đó, tiến bộ trong hóa xạ tiền phẫu giúp giảm kích thước u trước mổ, cùng sự hỗ trợ của các công cụ hiện đại giúp thực hiện phẫu thuật chính xác, giảm tỉ lệ tái phát sau mổ.
Trong ung thư đại trực tràng có khoảng 35% trường hợp liên quan đến di truyền. Do đó, thực hiện xét nghiệm gen sẽ giúp bệnh nhân và người thân của họ được phòng ngừa, tầm soát chủ động.
Xem thêm: mth.64790957070210202-oh-om-gnuhc-ueirt-gnart-curt-uht-gnu-meih-yugn/nv.ertiout