Nick Molnar (30 tuổi) được coi là người có công tạo ra thói quen chi tiêu mới cho hàng triệu người trẻ. Đại dịch đang giúp công ty thanh toán của anh ăn nên làm ra. Cổ phiếu công ty tăng vọt đã giúp tài sản của anh vượt 1 tỷ USD năm nay, trở thành tỷ phú tự thân trẻ nhất Australia, theo Australia Financial Review.
"Bạn thực sự chẳng thể phân tích những gì đang diễn ra vì rất nhiều thứ xảy ra quá nhanh", Molnar cho biết trên CNBC. Anh là đồng sáng lập kiêm đồng CEO của Afterpay - một nền tảng thanh toán theo mô hình "mua ngay, trả tiền sau", cho phép người dùng trả góp không lãi suất.
Năm nay, công ty 6 năm tuổi này trở thành một trong những cổ phiếu nóng nhất Australia, tăng giá 1.300% và có lượng người dùng hoạt động tăng gấp đôi, lên 11,2 triệu khi đại dịch thay đổi thói quen chi tiêu.
Dù vậy, mục đích ban đầu của Molnar và người hàng xóm - Anthony Eisen khi thành lập công ty cách đây 6 năm là để đối phó với một cuộc khủng hoảng khác. "Tôi đã nhận ra xu hướng này khi lớn lên trong khủng hoảng tài chính 2008", Molnar nói.
Khi đó, anh là sinh viên thương mại tại Đại học Sydney. Molnar nhận thấy xu hướng chi tiêu của người trẻ đang thay đổi. Anh cho rằng họ ngày càng nghi ngờ các sản phẩm tài chính truyền thống, như thẻ tín dụng, do nó có thể khiến họ rơi vào vòng xoáy nợ nần.
"Trưởng thành trong thời kỳ đó thực sự rất đáng nhớ", anh nói, "Bạn nhìn thấy cha mẹ mình, hoặc bạn bè của họ, thất nghiệp. Và thế là bạn nghĩ rằng: ‘Mình sẽ tiêu tiền của mình thôi. Mình thích một loại thẻ ghi nợ tương đương thẻ tín dụng’".
Vì thế, Molnar và Eisen quyết định tạo ra giải pháp mới, thân thiện với người trẻ. Theo đó, họ sẽ tính phí với hãng bán lẻ khi bán được hàng, thay vì tính lãi với người mua. Theo mô hình "mua ngay, trả tiền sau", người mua có thể chia chi phí (tối đa 1.500 đôla Australia) thành 4 kỳ trả góp. Trong khi đó, người bán sẽ trả một khoản hoa hồng 4-6% cho mỗi đơn hàng. Nếu người mua lỡ một kỳ thanh toán, họ sẽ bị cấm sử dụng dịch vụ cho đến khi trả đủ toàn bộ số tiền của món hàng.
"Trong tài chính truyền thống, phần lớn nguồn thu lấy từ người tiêu dùng, chứ không phải hãng bán lẻ. Và rồi chúng tôi nghĩ tại sao không lật ngược quá trình này lại", anh nói.
Sau khi ra mắt năm 2014, công ty tăng trưởng rất nhanh. Những người tiêu dùng kẹt tiền thích mô hình trả góp này. Còn các hãng bán lẻ, vốn rất muốn tăng doanh thu, cũng hài lòng với việc trả một khoản phí nhỏ cho nền tảng này.
Chỉ trong hai năm, Afterpay huy động được gần 18 triệu USD (25 triệu AUD) nhờ IPO trên sàn chứng khoán Australia. Tuy nhiên, phải đến năm 2018, khi mở rộng sang Mỹ, việc kinh doanh của họ mới lên tầm cao mới nhờ một dòng tweet đề cập đến Afterpay của ngôi sao truyền hình thực tế Kim Kardashian.
Thương hiệu mỹ phẩm của em gái cô - Kylie Skin hiện là một trong hàng nghìn hãng bán lẻ trên nền tảng này. Các thương hiệu thời trang thể thao như Lululemon hay Adidas cũng góp mặt khi thói quen của người tiêu dùng thay đổi.
Sau đó, đại dịch càng làm tăng tốc quá trình này. Trong thời kỳ phong tỏa hồi đầu năm, các giao dịch thực hiện bằng thẻ tín dụng của Visa giảm hơn 30% so với năm ngoái. Trong khi đó, giao dịch bằng thẻ ghi nợ lao dốc, nhưng hồi phục nhanh chóng trong tháng 5, khi người tiêu dùng bắt đầu chi tiêu trở lại cho bán lẻ và đồ nâng cấp nhà cửa.
"Xu hướng này tương tự những gì chúng tôi chứng kiến năm 2008. Rõ ràng có sự chuyển dịch từ thẻ tín dụng sang ghi nợ", Molnar nói.
Sau khi giảm xuống 8 AUD hồi tháng 3, cổ phiếu Molnar đã tăng tới 1.300% lên 105 AUD tháng trước. Đại gia công nghệ Tencent (Trung Quốc) cũng đã trả hơn 200 triệu USD để mua 5% cổ phần công ty này hồi tháng 5.
Afterpay hiện là một trong những cổ phiếu nóng nhất Australia. Còn hai đồng sáng lập - với 7% cổ phần mỗi người - đều đã trở thành tỷ phú. "Cả hai chúng tôi trước đó đã thống nhất không theo dõi giá cổ phiếu. Giá sẽ có lúc lên lúc xuống. Tôi không nghĩ rằng điều này có nghĩa việc kinh doanh của chúng tôi tốt lên hay tệ đi", Molnar nói.
Dù vậy, nhiều người chỉ trích rằng mô hình của công ty sẽ khuyến khích việc chi tiêu quá đà. "Nó khiến mọi người nghĩ rằng họ có thể chi nhiều hơn những gì mình thực sự có", Hianyang Chan - một cố vấn cấp cao tại hãng nghiên cứu thị trường Euromonitor cho biết.
Hiện tại, các nền tảng theo mô hình này, như Afterpay, Affirm và Klarna chưa được quản lý theo luật tín dụng tiêu dùng tại hầu hết quốc gia. Giới chức cũng lo ngại các hãng bán lẻ nhỏ khó chịu được khoản phí dịch vụ như các hãng lớn, khiến cạnh tranh giảm sút.
Molnar nói rằng Afterpay đang thảo luận với giới chức về các lo ngại này. Năm 2020, họ cho biết 90% giao dịch được thanh toán đúng hạn. Nhìn chung, khoản phí trả chậm chỉ chiếm chưa đầy 14% doanh thu công ty. Phần còn lại là phí dịch vụ của các hãng bán lẻ.
Dù vậy, Afterpay vẫn chưa có lãi. Năm 2020, doanh thu công ty tăng gấp đôi lên 382 triệu USD. Khoản lỗ giảm nửa về 16,8 triệu USD.
Molnar cho biết anh hiện tập trung thúc đẩy tăng trưởng bằng cách mở rộng ra quốc tế. Các mục tiêu chủ chốt là Mỹ, Anh và châu Âu. "Các khu vực khác nhau đang ở trong giai đoạn tăng trưởng khác nhau. Tại Australia, một phần ba người trẻ sử dụng dịch vụ của chúng tôi mỗi tháng. Tại Mỹ, chúng tôi xử lý hơn 4 tỷ USD giao dịch trong 12 tháng qua. Nhưng đây mới chỉ là năm thứ 2 và mọi thứ chỉ mới bắt đầu", Molnar nói.
Hà Thu (theo CNBC)