Năng lượng: Giá dầu nhích tăng, khí tự nhiên giảm
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng nhẹ song hoạt động giao dịch trầm lắng trong phiên cuối cùng của năm 2023 (ngày 29/12). Cụ thể, dầu thô Brent tăng 12 US cent lên 77,27 USD/thùng và dầu thô Tây Texas (WTI) tăng 16 US cent lên 71,93 USD/thùng.
Kết thúc năm 2023, cả hai loại dầu đều giảm 10% sau 2 năm tăng liên tiếp do lo ngại về địa chính trị và việc cắt giảm sản lượng khiến giá dầu dao động, cũng là năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2020 do đại dịch ảnh hưởng đến nhu cầu khiến giá giảm mạnh.
Việc cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, dẫn đầu là Nga (OPEC+), không đủ để hỗ trợ giá. Tính cả năm, giá dầu giảm gần 20% kể từ mức cao nhất trong năm. OPEC+ cắt giảm sản lượng khoảng 6 triệu thùng/ngày, chiếm khoảng 6% nguồn cung toàn cầu.
OPEC đang đối mặt với nhu cầu dầu thô dự báo suy yếu trong nửa đầu năm 2024, khi thị phần toàn cầu của khối này giảm xuống mức thấp nhất kể từ đại dịch cắt giảm sản lượng và việc Angola rời khỏi nhóm.
Một cuộc khảo sát của Reuters với 34 nhà kinh tế và phân tích dự báo giá dầu thô Brent sẽ ở mức trung bình 82,56 USD/thùng trong năm 2024, giảm so với mức 84,43 USD/thùng trong tháng 11/2023 do dự đoán tăng trưởng toàn cầu suy yếu sẽ hạn chế nhu cầu, cùng với đó là căng thẳng địa chính trị có thể khiến nhu cầu suy giảm.
Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm và có năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2006, chịu áp lực giảm bởi sản lượng đạt mức cao kỷ lục, tồn trữ cao và điều kiện thời tiết ôn hòa.
Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn New York giảm 4,3 US cent (-1,7%) xuống 2,51 USD/mmBTU. Tính cả tháng, giá giảm hơn 10% và là tháng giảm thứ 2 liên tiếp.
Tính cả năm 2023, giá khí tự nhiên giảm gần 44% - năm giảm đầu tiên trong 4 năm và là năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2006.
Kim loại: Giá vàng giảm nhẹ, quặng sắt tăng 5 tháng liên tục, đồng biến động trái chiều
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng duy trì ổn định, vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce và có năm tăng mạnh nhất kể từ năm 2020, được thúc đẩy bởi kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể cắt giảm lãi suất sớm nhất vào tháng 3/2024.
Cụ thể, kết thúc phiên 29/12, vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm nhẹ về mức 2.064,34 USD/ounce. Vàng kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn New York giảm 0,6% xuống 2.071,8 USD/ounce.
Tính chung cả năm 2023, giá vàng tăng 13% và dao động mức thấp gần 1.800 USD/ounce và mức cao kỷ lục 2.135,4 USD/ounce.
Chỉ số USD giảm 2% trong năm 2023, đồng thời lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm chạm gần mức thấp nhất từ tháng 7/2023 giúp giá vàng đi lên.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng kỳ hạn giao 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,1% lên 8.629,50 USD/tấn. Hợp đồng này đã tăng 3,1% từ đầu năm đến nay, đảo ngược một phần mức giảm 13,9% vào năm 2022.
Theo các nhà phân tích tại công ty môi giới China Futures, nhu cầu đồng của Trung Quốc đã tăng 3,2% trong năm qua sau khi nước này bãi bỏ chính sách “Zero Covid”, đồng thời dự báo mức tăng trưởng hàng năm sẽ giảm xuống còn 2,8% vào năm 2024, do lĩnh vực nhà ở vẫn chậm chạp nhưng được bù đắp một phần bằng việc tăng cường đầu tư vào lưới điện, các lĩnh vực năng lượng mặt trời và năng lượng gió mạnh mẽ.
Đồng được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực điện, xây dựng và giao thông. Chỉ số USD giảm do kỳ vọng Fed sẽ cắt giảm lãi suất từ tháng 3/2024 được cho là sẽ thúc đẩy nhu cầu đồng toàn cầu. Ngoài ra, thị trường cũng được củng cố bởi lượng tồn kho khan hiếm và triển vọng nguồn cung đồng cô đặc thắt chặt hơn.
Các nhà luyện đồng hàng đầu của Trung Quốc đã hạ dự báo giá đồng trong quý đầu tiên của năm 2024 do việc đóng cửa và gián đoạn các mỏ làm dấy lên lo ngại về nguồn cung nguyên liệu thô.
Cũng trên sàn LME, giá nhôm không đổi ở mức 2.377 USD/tấn; thiếc giảm 0,6% xuống 25.540 USD/tấn; kẽm tăng 0,1% lên 2.644 USD/tấn; chì không đổi ở mức 2.086 USD/tấn và nikel giảm 0,7% xuống 16.625 USD/tấn.
Trong khi đó, trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE), hợp đồng đồng tháng 2/204 được giao dịch nhiều nhất giảm 0,9% xuống 68.860 CNY (tương đương 9.701,73 USD)/tấn. Giá đồng đã tăng 6,7% từ đầu năm đến nay.
Giá một số kim loại màu khác trên sàn SHFE: Nhôm giảm 0,2% xuống 19.520 CNY/tấn; niken giảm 2,4% xuống 127.160 CNY/tấn và thiếc giảm 1,4% xuống 211.500 CNY/tấn; trong khi giá kẽm tăng 0,1% lên 21.510 CNY/tấn và chì tăng 0,1% lên 15.890 CNY/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tháng 5/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc tăng 0,3% lên 973,5 CNY (tương đương 137,31 USD)/tấn. Hợp đồng này đánh dấu mức tăng tháng thứ 5 liên tiếp với mức tăng trung bình là 6,9%/tháng.
Trên Sàn giao dịch Singapore, giá quặng sắt chuẩn tháng 2/2024 tăng 1,3% lên 137,24 USD/tấn. Trong tháng, hợp đồng này ghi nhận mức tăng 7,4% - cũng đánh dấu tháng tăng thứ năm liên tiếp và kết thúc năm với mức tăng 26,4%.
Năm qua, giá quặng sắt tăng bất chấp kỳ vọng kém tích cực của thị trường, được củng cố bởi sự kích thích ở nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho biết sẽ đẩy mạnh điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô để hỗ trợ nền kinh tế và thúc đẩy sự phục hồi của giá cả, trong bối cảnh có dấu hiệu áp lực giảm phát gia tăng.
Điểm chuẩn thép trên sàn SHFE không đồng đều. Hợp đồng thép cây tích cực nhất và thép không gỉ lần lượt giảm 0,1% và 2,4%. Trong khi đó, thép cuộn cán nóng và thép dây lần lượt tăng 0,1% và 4,6%.
Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác, chẳng hạn than cốc Đại Liên và than luyện cốc lần lượt giảm 0,8% và 0,4%.
Nông sản: Giá ngô giảm mạnh nhất 10 năm, đậu tương và lúa mì cũng giảm mạnh
Giá ngô trên sàn Chicago giảm và có năm giảm mạnh nhất trong 10 năm qua, lúa mì và đậu tương cũng có năm giảm mạnh nhất với vụ mùa bội thu tại Brazil.
Cụ thể, giá lúa mì giảm 3-1/2 US cent xuống 6,28 USD/bushel; đậu tương giảm 14 US cent xuống 12,98 USD/bushel; ngô giảm 3 US cent xuống 4,71-1/4 USD/bushel.
Tính chung cả năm, giá ngô giảm 31% - năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2013, lúa mì giảm 21% và đậu tương giảm 15%.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và cà phê giảm, cao su và ca cao tăng
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE giảm 5,4% xuống 20,58 US cent/lb. Tính chung cả năm, giá tăng 3%.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London giảm 4,2% xuống 596,2 USD/tấn. Tính chung cả năm, giá tăng 7,5%.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London giảm 95 USD (-3,24%) xuống 2.841 USD/tấn. Giá cà phê arabica cùng kỳ hạn trên sàn New York cũng giảm 9,7 cent (-4,9%) về 188,3 US cent/lb - mức thấp nhất 3 tuần.
Tính chung cả năm 2023, giá arabica ghi nhận mức tăng 12,6% và robusta tăng 58% do xuất khẩu từ nhà sản xuất hàng đầu Việt Nam sụt giảm trong khi nhu cầu mạnh, khi các nhà rang xay tăng tỷ lệ pha trộn cà phê robusta rẻ hơn so với cà phê arabica.
Lượng mưa trung bình tại nhiều vùng trồng cà phê chính ở Brazil đã được cải thiện, giúp hạn chế tình trạng khô nóng, tạo điều kiện thuận lợi cho cây cà phê phát triển, giúp thị trường duy trì quan điểm tích cực về triển vọng nguồn cung cà phê của nước này trong niên vụ 2024-2025.
Giá cao su tại Nhật Bản kết thúc năm tăng 17,7%, sau khi giảm trong năm 2022, do thị trường lạc quan về các biện pháp kích thích tiềm năng từ Trung Quốc. Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Osaka tăng 3 JPY (+1,2%) lên 256,5 JPY (1,82 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả tháng, giá giảm 2,5% - cũng là tháng giảm đầu tiên sau 4 tháng tăng liên tiếp.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 260 CNY (+1,9%) lên 14.160 CNY (1.997,24 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Singapore tăng 2,4% lên 154,7 US cent/kg.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng, song có năm giảm thứ 2 liên tiếp. Cụ thể, hợp đồng dầu cọ kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 5 ringgit tương đương 0,13% lên 3.744 ringgit (815,69 USD)/tấn. Tính cả năm, giá giảm 10%.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |