vĐồng tin tức tài chính 365

Đại hội XIII: Làm gì để vượt qua thách thức giai đoạn 2021-2025?

2021-01-27 18:01

Đại hội XIII: Làm gì để vượt qua thách thức giai đoạn 2021-2025?

Minh Đức

(TBKTSG Online) - Tham luận tại ngày làm việc thứ ba Đại hội XIII (27-1), đa số các đại biểu cho rằng, nhiệm kỳ 2021 - 2025 và những năm tiếp theo, tình hình thế giới dự kiến sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, nhiều bất trắc, khó lường, dịch bệnh có khả năng kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong điều kiện Việt Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng và có độ mở kinh tế lớn, các ngành, các cấp sẽ làm gì để phát huy các thành quả quan trọng đã đạt được, vượt qua thách thức góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng?. 

 

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc điều hành phiên tham luận tại ngày làm việc thứ hai 27-1. Ảnh: dangcongsan.vn

NHNN: Kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, nhiệm kỳ 2021 – 2025, tình hình thế giới dự kiến sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, đặt ra nhiều thách thức đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Ban cán sự Đảng NHNN sẽ quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức để lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống, mà trọng tâm là một số mặt công tác sau:

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đọc tham luận tại Đại hội. Ảnh: PV

Một là, tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để ứng phó linh hoạt, tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động của kinh tế, tiền tệ thế giới, tăng tính độc lập tự chủ của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế;

Hai là, tiếp tục thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch Covid-19; tập trung vốn vào sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Khuyến khích phát triển các sản phẩm tín dụng đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”; Quan tâm phát triển “tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh”, phát triển tài chính toàn diện, tạo công ăn việc làm và đảm bảo an sinh xã hội.

Ba là, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu CMCN 4.0 trong hoạt động thanh toán; triển khai các mô hình thanh toán tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với triển khai Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia; thúc đẩy thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ, dịch vụ công. Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn và bảo vệ người tiêu dùng trong thanh toán không dùng tiền mặt. Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo hoạt động ngân hàng thông qua cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính. Triển khai hiệu quả Chiến lược tài chính toàn diện Quốc gia, góp phần thực hiệc chủ trương không để ai bị bỏ lại phía sau;

Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của tổ chức tín dụng, tham mưu các cấp có thẩm quyền việc ban hành và triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng giai đoạn 2021-2025. Thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phối hợp chặt chẽ với Bộ, ngành thực hiện các giải pháp góp phần nâng cao Chỉ số tiếp cận tín dụng, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Bộ Tài chính: Cơ cấu lại ngân sách, nợ công

Theo Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng, bước sang giai đoạn 2021-2025, chiến lược 10 năm 2021-

Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng đọc tham luận tại Đại hội. Ảnh: dangcongsan.vn

2030 và tầm nhìn đến năm 2045. ban cán sự đảng Bộ Tài chính xác định, nhiệm vụ trọng tâm của ngành tài chính trong giai đoạn tới là: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế tài chính, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công lập, tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy, biên chế cùng với cải cách, hiện đại hoá công tác quản lý; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách; củng cố dư địa tài khóa, nâng cao khả năng chống chịu của nền tài chính quốc gia.

Trong đó tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, Tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục hoàn thiện chính sách huy động. Phát triển hệ thống thu hiện đại, phù hợp với trình độ phát triển, hội nhập và thông lệ quốc tế, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, hiện đại, thuận tiện; tạo điều kiện khơi thông các nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội; điều tiết thu nhập hợp lý; đồng thời tăng tính bền vững, bảo đảm nguồn thu đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Thứ hai, tăng cường quản lý ngân sách nhà nước, triển khai đồng bộ, hiệu quả các kế hoạch tài chính 5 năm, kế hoạch vay - trả nợ công 5 năm và kế hoạch đầu tư công 5 năm; kiểm soát chặt chẽ bội chi ngân sách và nợ công, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tăng cường ổn định vĩ mô vững chắc, đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia. 

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công, từng bước cải thiện dư địa chính sách tài khóa. Đẩy mạnh cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước trên cơ sở phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường. Tiếp tục phát triển lành mạnh các thị trường tài chính, chứng khoán, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính để huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, quyết liệt thực hiện các mục tiêu Nghị quyết số 18, số 19 Khoá 12 về tinh gọn bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả bộ máy hành chính, đổi mới khu vực sự nghiệp công lập, hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, đồng thời cơ cấu lại căn bản chi ngân sách nhà nước.

Thứ năm, khẩn trương hoàn thiện cơ chế về đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp; phấn đấu đến năm 2025, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước có vị trí quan trọng, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; cơ cấu lại, phát triển các doanh nghiệp này theo cơ chế thị trường, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế.

Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai, minh bạch, giám sát an toàn khu vực tài chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Phấn đấu đến năm 2025 hoàn thành xây dựng Chính phủ điện tử, chính phủ số ở những lĩnh vực tài chính quốc gia, tài chính công trọng yếu (ngân sách nhà nước, thuế, hải quan, chứng khoán, quản trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp…).

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Tranh thủ lợi thế các Hiệp định thương mại tự do

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trình bày tham luận tại Đại hội XIII. Ảnh: dangcongsan.vn

Trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm tới, mục tiêu chính là tiếp tục phát triển bền vững theo 3 trụ cột “kinh tế, xã hội và môi trường”, hướng tới thực hiện mục tiêu tổng quát “Phát triển nền nông nghiệp thông minh, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; nông thôn mới phồn vinh và văn minh, nông dân giàu có” và mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là: (1) Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 2,5 - 3,0%/năm; (2) Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 48 - 50 tỷ USD; (3) Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới 80%; (4) Thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông thôn gấp 1,5 lần năm 2020; (5) Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ở mức 42%, tăng cường chất lượng rừng.

Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu trên, cần giải quyết một cách đồng bộ, tổng thể các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó chú trọng thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau:

Thứ nhất: Tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức về “Phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế” đến các cấp, ngành, địa phương và người dân; thay đổi nhận thức và cách tiếp cận về sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu.

Thứ hai: Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại ngành; trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và xây dựng nông thôn mới, nhất là cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, đầu tư, bảo hiểm, hợp tác công tư. Hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, bảo vệ quyền lợi của nông dân; thúc đẩy tích tụ, tập trung đất đai trên cơ sở hình thành thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Thứ ba: Thông tin, dự báo tình hình thị trường, tranh thủ lợi thế các Hiệp định thương mại tự do và các cam kết quốc tế để ổn định, giữ vững các thị trường truyền thống, quy mô lớn, phát triển thị trường mới. Định hướng tổ chức sản xuất, tiêu thụ, có chiến lược đàm phán mở cửa thị trường, phát triển thị trường đối với các sản phẩm chủ lực, có tiềm năng, đi đôi với đẩy mạnh Chương trình “Đưa hàng hóa từ nông thôn vào thành thị”. Xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam chất lượng cao, an toàn thực phẩm, thân thiện với môi trường.

Thứ tư: Phát triển công nghiệp chế biến và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, thông minh tăng tỷ trọng chế biến sâu để giảm chi phí, nâng cao giá trị sản phẩm. Phát triển các cụm liên kết sản xuất gắn với vùng nguyên liệu, các hình thức hợp tác liên kết sản xuất, chế biến kết nối với hệ thống tiêu thụ trong nước và quốc tế.

Thứ năm: Nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, tập trung giải quyết các khâu then chốt, ứng dụng nhanh thành quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao để tạo tăng trưởng đột phá. Đồng thời, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho nông dân, chuyển dịch đồng bộ lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ với những điều kiện an sinh xã hội tốt hơn.

Thứ sáu: Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả gắn với quá trình “chuyển đổi số, kinh tế số” trong lĩnh vực nông nghiệp; hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu.
 

Thứ bẩy: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông thôn. Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững gắn với đô thị hóa. Nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần người dân nông thôn theo hướng nông dân giàu có, văn minh và bảo đảm môi trường sinh thái.

Thứ tám: Huy động nguồn lực, đầu tư hạ tầng đồng bộ cho nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, bền vững, đảm bảo khả năng chống chịu trước rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu ngày một nghiêm trọng. Tiếp tục triển khai hiệu quả công tác bảo vệ rừng, nhất là rừng tự nhiên, rừng đầu nguồn; triển khai phong trào trồng mới 1 tỷ cây xanh góp phần bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

 

Xem thêm: lmth.5202-1202-naod-iaig-cuht-hcaht-auq-touv-ed-ig-mal-iiix-ioh-iad/402313/nv.semitnogiaseht.www

Comments:0 | Tags:No Tag

“Đại hội XIII: Làm gì để vượt qua thách thức giai đoạn 2021-2025?”0 Comments

Submit A Comment

Name:

Email:

Blog :

Verification Code:

Announce

Tools