Khảo sát mới nhất của Jetro, 86% doanh nghiệp Nhật Bản khẳng định mong muốn tăng tỷ lệ mua hàng tại Việt Nam trong vòng 1-3 năm tới. Nhiều nhà sản xuất thiết bị công nghiệp đầu cuối lớn trên thế giới như Panasonic, Bosch, Samsung... đang có nhu cầu tìm thêm nhà cung cấp, tăng tỉ lệ nội địa hóa. Tập đoàn Techtronic Industries, TTI, Hoa Kỳ đặt mục tiêu tỷ lệ cung ứng nội địa đạt tới 80%.
Doanh nghiệp cung ứng tăng mạnh đơn hàng
Theo đánh giá của các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài, trong 1 năm tác động của dịch Covid 19, tỷ lệ thu mua tại chỗ của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam vẫn tăng trưởng trong khi nhiều quốc gia hoặc khu vực có sự sụt giảm. Điều này thể hiện rõ các chính sách của Chính phủ trong việc thúc đẩy nền công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đã có hiệu quả.
Theo Hội cơ khí điện TP Hồ Chí Minh, dù năm ngoái chịu tác động của dịch bệnh gây đình trệ sản xuất nhưng các doanh nghiêp nhóm này vẫn có sự tăng trưởng tốt. Các đơn hàng chủ yếu đến từ nhóm khách hàng Nhật Bản và Hàn Quốc. Riêng năm nay, lượng đơn đặt hàng từ nhóm doanh nghiệp FDI đã tăng 20%.
Ông Đỗ Phước Tống, Chủ tịch Hội cơ khí điện TP Hồ Chí Minh, chia sẻ: "Các doanh nghiệp rất tất bật vì từ đầu năm đã có những đơn hàng. Khách hàng tiềm năng rất nhiều, nhiều khách hàng đặt vấn đề mua hàng thêm, mua hàng mới".
Trong khi đó, ông Bùi Lê Anh Hiếu, Giám đốc Phát triển, Công ty Cổ phần Long Hậu, cho biết: "Trong tình hình dịch bệnh, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, hoạt động vận chuyển gặp nhiều khó khăn, ngoài ra, chi phí vận chuyển tăng cao rất nhiều nên các doanh nghiệp mong muốn khi sản xuất có hệ thống cung cấp tại chỗ tiết kiệm chi phí, kiểm soát chuỗi cung ứng. Điều này cũng trở thành xu hướng các nhà đầu tư FDI quan tâm".
Việt Nam nằm trong nhóm lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp đối với kế hoạch tăng tỷ lệ nội địa hóa. Việc đứt gãy chuỗi cung ứng do dịch bệnh cùng với tận dụng lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do khiến nhu cầu tăng tỷ lệ nội địa hóa của doanh nghiệp FDI là xu hướng tất yếu.
Tốc độ nội địa hóa còn chậm
Tỷ lệ thu mua tại chỗ đã tăng dần từ năm 2010. Tuy nhiên, lấy ví dụ cụ thể từ việc thu mua tại chỗ của doanh nghiệp Nhật Bản tại nước ta sẽ thấy vẫn còn một số trở ngại.
Năm ngoái, tỷ lệ nội địa hóa đạt 37,4% - tức là chỉ tăng nhẹ 0.4% so với năm 2020. Mặc dù đã vượt qua Malaysia nếu nhưng so sánh với Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia thì vẫn có khoảng cách lớn.
Rào cản lớn nhất để tăng tỷ lệ thu mua tại chỗ là ở "Chất lượng và năng lực kỹ thuật của bên cung cấp". Có đến 63% doanh nghiệp cho biết họ gặp vấn đề này.
Chất lượng và chi phí là 2 tiêu chí quan trọng nhất để tham gia chuỗi cung ứng. Tuy nhận diện ra điểm nghẽn nhưng việc tháo nút thắt lại không đơn giản.
Cụm khu công nghiệp hỗ trợ: Tháo điểm nghẽn để đẩy nhanh nội địa hóa
Suốt nhiều năm liền, Công ty Cơ khí Duy Khanh sản xuất với nhà xưởng chỉ rộng 3.000m2. Với lượng đơn hàng tăng khoảng 20% so với năm ngoái, giờ gần như phải tận dụng mọi ngóc ngách để có thể bố trí sản xuất. Nhu cầu mở rộng nhà xưởng, quy hoạch vào cụm khu công nghiệp hỗ trợ nhiều năm nay đều chưa thể thực hiện được.
Ông Đỗ Phước Tống, Công ty Cơ khí Duy Khanh, cho biết: "Hiện đang vướng rào cản mặt bằng sản xuất, đó là rào cản lớn nhất của doanh nghiệp. Đầu tư máy móc thiết bị thì doanh nghiệp có khả năng thương lượng với đối tác cung cấp thiết bị và coi như dễ nhưng để chuẩn bị cơ sở hạ tầng, mặt bằng sản xuất thì đó là bài toán rất gian nan của doanh nghiệp".
Cần các khu công nghiệp với diện tích mặt bằng lớn, đầu tư máy móc để nâng cao cả chất lượng và quy mô, mới có thể giải được bài toán trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Bà Mary Tarnowka, Giám đốc Điều hành Hiệp hội Thương mại Hòa Kỳ tại Việt Nam, cho biết: "Nâng mình lên để đạt tiêu chuẩn toàn cầu, có nghĩa là phải đạt yếu tố về quy mô sản xuất. Khi tham gia vào một chuỗi, tức là doanh nghiệp phải có khả năng đáp ứng đơn hàng lớn với chi phí hợp lý".
Các cụm khu công nghiệp hỗ trợ còn giải quyết đề bài về mô hình "just in time" của các doanh nghiệp FDI - tức là sản xuất "đúng sản phẩm, đúng số lượng, đúng thời điểm" , "không tồn kho, không thời gian chờ đợi và không chi phí phát sinh".
Ông Hirai Shinji, Trưởng Đại diện Văn phòng Tổ chức Xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản tại TP Hồ Chí Minh, nói: "Sức hấp dẫn của doanh nghiệp 2 nước phải đến từ sự hiểu biết chung về công nghệ, trình độ kỹ thuật, từ đó tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất. Bên cạnh đó là cơ sở hạ tầng. Doanh nghiệp muốn mở cơ sở sản xuất ở Cần Thơ, Kiên Giang phải cân nhắc từ đó đến TP Hồ Chí Minh bao xa, vận chuyển hàng hóa mất bao lâu, có kịp tiến độ sản xuất hay không. Đúng là trong nhóm 3 nước được Nhật Bản lựa chọn đầu tư nhiều là Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan, Việt Nam có trở ngại lớn với vấn đề cơ sở hạ tầng".
Ông Trần Anh Thi, Trưởng ban, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao TP Hồ Chí Minh, nhận định: "Chúng ta phải nắm được nhu cầu rất cụ thể của doanh nghiệp để có quy hoạch khu công nghiệp hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu ngành hàng cụ thể, của những doanh nghiệp FDI chiến lược cụ thể".
Mới đây, TP Hồ Chí Minh cũng công bố việc dành ra 300 ha đất để xây dựng khu công nghiệp hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao. Thành phố cũng đang trong quá trình lấy ý kiến và tìm mô hình phù hợp. Nhiều doanh nghiệp cho rằng chính vì thiếu các cụm khu công nghiệp hỗ trợ nên doanh nghiệp chưa thể đáp ứng nhu cầu tăng từ các doanh nghiệp đầu cuối. Và khi thiếu đi đơn hàng từ các doanh nghiệp lớn khối FDI thì khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ của các nhà cung cấp nội địa cũng trở nên thách thức hơn.
Theo số liệu của Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, hiện cả nước chỉ có gần 400 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đủ chất lượng, đã tham gia vào chuỗi cung ứng của các công ty FDI và xuất khẩu. Nhu cầu tăng nhưng khi doanh nghiệp không thể đáp ứng hay thiếu đi đơn hàng từ các doanh nghiệp lớn khối FDI thì khả năng đầu tư, đổi mới công nghệ của các nhà cung cấp nội địa cũng trở nên thách thức hơn.
* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online và VTVGo!
Xem thêm: mth.38594053222202202-mahc-nav-gnuc-gnuhn-gnat-uac-ohc-iat-gnah-aum/et-hnik/nv.vtv