Dư nợ xấu tăng cao
Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tức là nợ xấu của nền kinh tế, có xu hướng tăng. Công tác kiểm soát nợ xấu gặp khó khăn bởi dịch bệnh Covid-19 kéo dài và tác động có độ trễ, nên dần ảnh hưởng lớn hơn đến hoạt động ngân hàng. Những khó khăn của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp, người dân có thể bộc lộ rõ nét hơn trong thời gian tới, khiến tỷ lệ nợ xấu nội bảng có nguy cơ tiếp tục tăng.
Đáng lưu ý, tình trạng đóng băng của thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp đã ảnh hưởng đến chất lượng tài sản của ngành ngân hàng. Đồng thời, các nhà băng cũng phải đối mặt với nguy cơ gia tăng các khoản nợ xấu sau khi thời gian cơ cấu thời hạn trả nợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN kết thúc.
Số liệu từ báo cáo tài chính quý IV/2022 cho thấy, dư nợ xấu tính đến 31/12/2022 của 27 ngân hàng có cổ phiếu niêm yết và đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán đã tăng 35% so với đầu năm 2022, lên trên 136.400 tỷ đồng. Số ngân hàng có nợ xấu tăng chiếm xấp xỉ 89% trong nhóm được thống kê.
Thực tế, năm 2022, nợ xấu vẫn là thách thức của ngành ngân hàng trong bối cảnh lạm phát và lãi suất tăng cao. Nợ xấu ngành này gia tăng trong những tháng cuối năm 2022 và tiếp tục có sự phân hóa, tùy thuộc vào tính chất tệp khách hàng của từng ngân hàng.
TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia ước tính, nợ xấu nội bảng cuối năm 2022 có thể tăng lên mức 2,3 - 2,5%, nợ xấu gộp khoảng 6%.
Xét về số dư tuyệt đối, VPBank là ngân hàng có số dư nợ xấu cao nhất tính đến cuối năm 2022, với hơn 25.100 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu ở mức 5,73%. Tuy vậy, phần lớn nợ xấu của VPBank đến từ Công ty tài chính tiêu dùng FE Credit, nợ xấu của ngân hàng mẹ chỉ hơn 10.000 tỷ đồng và tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng riêng lẻ dưới 3%.
Một số nhà băng có mức tăng trưởng nợ xấu cao trong năm qua như OCB tăng 98%, Techcombank tăng 66% và 5 ngân hàng khác có nợ xấu tăng trên 30%. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu vẫn được các ngân hàng này kiểm soát ở mức thấp, tại OCB là 2,23%, Techcombank là 0,66%.
Về nợ xấu nội bảng, BIDV và VietinBank có số dư nợ xấu cuối năm 2022 lần lượt là 17.662 tỷ đồng (tăng 30%) và 15.796 tỷ đồng (tăng 10%). Tại MB, nợ xấu nội bảng năm 2022 tăng 54%, lên hơn 5.000 tỷ đồng.
Trong nhóm nhà băng quy mô nhỏ, Saigonbank có tổng nợ xấu tính đến 31/12/2022 gần 398 tỷ đồng, tăng 22%. Nợ dưới tiêu chuẩn có tốc độ tăng mạnh nhất, kéo tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay từ 1,97% đầu năm 2022 lên 2,12%. ABBank có tỷ lệ nợ xấu trong năm 2022 tăng từ 2,34% lên 2,88%. Tỷ lệ nợ xấu tại VietBank không tăng so với cuối năm 2021, song duy trì ở mức tương đối cao là 3,65%.
Tăng trích lập dự phòng
Dư nợ xấu tính đến 31/12/2022 của 27 ngân hàng trên sàn chứng khoán tăng 35% so với đầu năm 2022, lên trên 136.400 tỷ đồng.
Theo FiinRatings, sau khi thời gian cơ cấu thời hạn trả nợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN kết thúc, các ngân hàng bắt đầu đối mặt với nguy cơ gia tăng các khoản nợ xấu. Vì thế, nhiều ngân hàng đẩy mạnh việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cho các khoản nợ xấu tiềm ẩn. Các ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt, lợi nhuận cao thường có nhiều dư địa để trích lập dự phòng, giữ tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức cao như Vietcombank, BIDV, VietinBank, lần lượt là 465%, 245%, 190% tính đến cuối năm 2022.
Các ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao sẽ có khả năng chống chọi tốt hơn trong điều kiện thị trường bất lợi như nợ xấu tăng từ tín dụng bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, hay biên lãi thuần bị ảnh hưởng. Ngược lại, lợi nhuận của ngân hàng có mức điểm xếp hạng tín nhiệm sơ bộ thấp bị ăn mòn gần hết bởi các chi phí dự phòng, trong khi tỷ lệ đòn bẩy cao hơn hẳn so với các nhà băng khác.
Năm 2023, nợ xấu được nhận định tiếp tục gia tăng, bởi thị trường bất động sản vẫn đang đối mặt với khó khăn. Với tỷ trọng dư nợ bất động sản và xây dựng chiếm xấp xỉ 30% tổng dư nợ của ngành ngân hàng, sự suy yếu của thị trường bất động sản được giới phân tích tài chính nhìn nhận không chỉ ảnh hưởng triển vọng tăng trưởng tín dụng, mà còn là những khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu. Thực tế, đa phần tài sản thế chấp cho các khoản nợ hiện nay đều là bất động sản.
Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam đánh giá, chất lượng tài sản của ngành ngân hàng hiện vẫn tốt, dù trải qua một năm 2022 đầy biến động. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của toàn ngành có thể sẽ tăng nhẹ trong năm 2023, một phần do Thông tư 14/2021/TT-NHNN hết hiệu lực, một phần do các vấn đề liên quan đến ngành bất động sản, khi các điều kiện thanh khoản bị thắt chặt và thị trường trái phiếu doanh nghiệp bị kiểm soát chặt chẽ.
Tương tự, Công ty Chứng khoán SSI dự báo, tỷ lệ nợ xấu bình quân ngành ngân hàng sẽ tăng 0,26%, lên 1,71%, với tỷ lệ hình thành nợ xấu tăng lên 1,3% (từ khoảng 1% trong giai đoạn 2020 - 2022) dưới tác động của lãi suất cho vay cao hơn.
Theo Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới có những thuận lợi và thách thức đan xen.
Vì thế, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý, phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng...
Giới phân tích tài chính cho rằng, năm 2023, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục hành trình vượt bão trong chu kỳ bất động sản đi xuống cùng với triển vọng kém tích cực của xuất nhập khẩu, nhưng khả năng chống chịu của từng ngân hàng sẽ tùy thuộc vào chất lượng tài sản và mức độ thận trọng của ngân hàng trong những năm qua. Quy mô nợ xấu, chi phí tín dụng sẽ khác nhau giữa các nhà băng, dựa trên mức độ thận trọng của nhà băng trong việc trích lập dự phòng và khả năng hồi phục tài chính của khách hàng.
Các ngân hàng có tệp khách hàng đa dạng, đã trích lập đầy đủ cho nợ cơ cấu và ít phơi nhiễm với trái phiếu doanh nghiệp sẽ có khả năng kiểm soát chi phí rủi ro tín dụng tốt hơn các ngân hàng khác. Trong đó, nhóm ngân hàng có vốn nhà nước chi phối (Vietcombank, BIDV, VietinBank, Agribank) và một số ngân hàng cổ phần có chính sách cho vay và trích lập dự phòng rủi ro thận trọng sẽ đáp ứng tốt với tiêu chí trên.