Ngày 1-2, Bệnh viện Trung ương Huế (BV TW Huế) cho biết, vừa điều trị thành công cho một bé gái 13 tuổi (trú tại phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) bị bệnh động kinh từ lúc 6 tuổi do loạn sản võ não thùy đảo bên phải.
Cụ thể, bệnh nhân đã được các bác sĩ chuyên khoa thần kinh của Bệnh viện Nhi Trung ương Hà Nội điều trị bằng các loại thuốc kháng động kinh nhưng không đáp ứng. Các cơn giật xuất hiện nhiều đã ảnh hưởng đến sinh hoạt và gián đoạn việc học tập của trẻ.
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt một phần tổn thương dạng loạn sản vỏ não vùng hồi nắp và thùy đảo bán cầu phải vào ngày 17-9-2019. Sau phẫu thuật, tình trạng động kinh có giảm khoảng 50% nhưng thời gian gần đây các cơn động kinh lại tăng lên cả về cường độ và tần suất.
Đồng thời, bệnh nhân bị yếu nửa người, nói khó do vùng não chi phối vận động và ngôn ngữ bị ảnh hưởng sau phẫu thuật. Kết quả chụp cộng hưởng từ não cho thấy có tổn thương tồn dư vùng hồi nắp và thùy đảo bán cầu phải, phù hợp cơn động kinh trên lâm sàng và các bất thường trên điện não đồ sau phẫu thuật.
GS.TS Phạm Như Hiệp – Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế - chủ trì hội chẩn đa chuyên khoa nhiều lần trước khi xạ phẫu
Sau khi hội chẩn với các chuyên gia thần kinh của Mỹ, Canada và thảo luận kỹ lưỡng với đội ngũ bác sĩ xạ trị ở BV TW Huế, xét thấy bệnh viện có đầy đủ điều kiện máy móc hiện đại, đội ngũ nhân lực y tế kinh nghiệm và khả năng triển khai kỹ thuật xạ phẫu cho bệnh lý động kinh kháng thuốc nên bệnh nhân được chuyển viện từ Hà Nội vào Khoa Xạ trị - Trung tâm Ung bướu, BV TW Huế để tiếp tục điều trị theo hướng can thiệp không phẫu thuật.
Dưới sự chủ trì hội chẩn đa chuyên khoa trực tuyến của GS.TS Phạm Như Hiệp, Giám đốc BV TW Huế, các chuyên gia về phẫu thuật thần kinh, nội thần kinh, nhi thần kinh, chẩn đoán hình ảnh, bác sĩ xạ trị/xạ phẫu của BV TW Huế đã thảo luận về các phương án tối ưu nhất để điều trị cho bệnh nhi này; khả năng phẫu thuật lại (phẫu thuật xâm lấn), xạ phẫu (không xâm lấn) hoặc tiếp tục điều trị nội khoa và cuối cùng đi đến đồng thuận. Đó là lựa chọn phương án xạ phẫu vào ổ tổn thương tồn dư vùng hồi nắp và thùy đảo bán cầu phải sau phẫu thuật theo khuyến cáo của các chuyên gia về động kinh trong nước và quốc tế.
Vì đây kỹ thuật mới, lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam nên công tác chuẩn bị được tiến hành rất kỹ lưỡng, bệnh nhân được theo dõi hai tuần, đo điện não, chụp cộng hưởng từ não để lập kế hoạch xạ phẫu chi tiết và chính xác nhất.
Thực hiện xạ trị cho bệnh nhân
TS.BS Phan Cảnh Duy - Phó Khoa Xạ trị, Trung tâm Ung bướu BV TW Huế là người trực tiếp thực hiện kỹ thuật này cho biết: bệnh nhân đã được xạ phẫu thành công, chính xác vào tổn thương tồn dư gây động kinh, vùng não lành kế cận không bị ảnh hưởng. Ngay sau khi xạ phẫu hoàn tất, bệnh nhi hoàn toàn tỉnh táo, giao tiếp bình thường, chưa thấy cơn động kinh tái phát hoặc tăng lên. Hiện bệnh nhân được tiếp tục dùng thuốc, sau khi xuất viện sẽ tiếp tục theo dõi thêm 3-6 tháng để đánh giá chính xác hiệu quả về kiểm soát động kinh bằng xạ phẫu.
Theo ThS.BS Nguyễn Hữu Sơn, Phó trưởng Khoa Nhi - Thần kinh, loại bỏ tổn thương não gây ra cơn động kinh bằng phẫu thuật hoặc xạ phẫu không phải là lựa chọn điều trị đầu tiên với người bị động kinh nhưng lại là phương pháp quan trọng được xem xét khi có ít nhất hai loại thuốc chống động kinh không kiểm soát được cơn động kinh. Phẫu thuật hoặc xạ phẫu điều trị động kinh đã được ứng dụng tại các trung tâm thần kinh có uy tín trên thế giới trong nhiều năm qua.
Ở Việt Nam, phẫu thuật điều trị động kinh đã được triển khai tại một số bệnh viện ở Hà Nội, TP.HCM và Huế. Tuy vậy, chưa thấy trường hợp nào xạ phẫu điều trị động kinh được công bố cho đến thời điểm hiện tại.
Đây là trường hợp động kinh đầu tiên được xạ phẫu thành công về mặt kỹ thuật. Việc ứng dụng xạ phẫu trong điều trị động kinh mở ra một hướng mới cho bệnh nhân, nhằm đem lại hiệu quả điều trị động kinh tốt nhất cho các trường hợp động kinh kháng trị hoặc điều trị phẫu thuật động kinh thất bại. Được biết, BV TW Huế cũng là đơn vị đầu tiên của Việt Nam triển khai xạ trị ở trẻ em, đặc biệt là xạ trị có gây mê.