Tôi được gặp lại người hiệu trưởng của mình - Trung tướng Lê Nam Phong - tại căn nhà của ông ở Thủ Đức, TP.HCM. Chất giọng và đôi mắt rực lửa của vị tướng vẫn uy nghiêm như xưa. Những ký ức về chiến tranh và đồng đội vẫn đầy ắp trong ông. Ông cắt nghĩa nhiều điều về chiến tranh, nhất là trận Điện Biên Phủ, rất tường tận và hấp dẫn.
Tôi biết trung tướng Lê Nam Phong khi ông là hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2, nay là Trường đại học Nguyễn Huệ. Lúc ấy, thỉnh thoảng ông lại xuống đơn vị cơ sở cấp tiểu đoàn của chúng tôi trò chuyện với học viên đào tạo sĩ quan.
Đặc biệt, những khi đơn vị tổ chức kể chuyện chiến đấu, bao giờ ông cũng dự và phát biểu cuối cùng.
Những lần gặp gỡ không quên
Chúng tôi thật sự thích thú khi được nghe ông kể chuyện về các trận đánh cụ thể. Ông diễn đạt nôm na, cắt nghĩa về chiến thuật, kỹ thuật khá hay trong khi những nhân chứng lịch sử Điện Biên Phủ có thể nói ngày càng ít, những người còn lại sức khỏe cũng yếu dần do tuổi tác, độ minh mẫn kém đi.
Là người trực tiếp chỉ huy các trận đánh với cương vị là "đại đội trưởng đầu trọc", nhưng trung tướng Lê Nam Phong vẫn còn rất minh mẫn, thậm chí với độ lùi của thời gian, cách nhìn của ông càng khách quan và trải nghiệm hơn.
Tôi nhớ rõ buổi tối hôm đó, tại bãi sân rất rộng, cả tiểu đoàn chúng tôi tập trung nghe kể chuyện chiến đấu. Đây là một nội dung quan trọng trong quá trình truyền thụ tri thức, kinh nghiệm cho học viên đào tạo sĩ quan.
Tại buổi kể chuyện, một cán bộ cao cấp có học hàm, học vị trình bày về diễn biến của trận Điện Biên Phủ. Ông nói "thao thao bất tuyệt", trong đó có chi tiết quân ta tổ chức văn công biểu diễn cho bộ đội xem ngay trên chiến trường.
Nghe đến đấy, tôi thấy mặt trung tướng đỏ lên, mắt giật giật. Khi kết luận buổi nói chuyện, ông khẳng định: "Ở Điện Biên Phủ, chiến trường dữ dội làm gì có văn công biểu diễn!". Chiến trường đó mưa bụi, đạn pháo ầm ào, người chết đầy… ác liệt dữ dội… làm sao mà văn công biểu diễn được. Văn công chỉ biểu diễn ở sau khu vực tập kết.
Điều đó ngẫm lại tôi mới thấy đúng. Thực tiễn quan trọng lắm, chỉ có qua chiến đấu như ông mới hiểu sâu sắc về sự ác liệt của chiến tranh.
Đại đội 225 do ông phụ trách thuộc tiểu đoàn 322, Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 còn mang tên "Đại đội đầu trọc". Ông kể đơn vị khi đó liên tục được bổ sung quân số, súng đạn, trang bị mà vẫn thiếu, nhiều chiến sĩ mới ông chưa kịp nhớ tên đã vĩnh viễn nằm xuống trên mảnh đất này.
Trung tướng Lê Nam Phong (phải) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1997) - Ảnh tư liệu
Trung tướng Lê Nam Phong là người chỉ huy từng trải nhưng cũng giàu cảm xúc, luôn yêu quý các văn nghệ sĩ, nhất là các đoàn văn công trong quân đội. Ông thường hay tổ chức các phong trào văn hóa văn nghệ tại đơn vị, các cuộc thi đấu dành cho tuổi trẻ, nhất là học viên sĩ quan mà ông rất quan tâm.
Từ lâu cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 đã tặng ông mấy biệt danh mà nhiều người còn nhắc tới ngày nay "Năm Bình toong", "Năm Hỏa lực" vì "đi đánh trận, khi công đồn diệt giặc trên chiến trường, ông luôn quyết đoán, khẩn trương và táo bạo, buộc quân sĩ phải nhất mực tuân thủ để hành động".
Đại đội trưởng đầu trọc
Một hôm chúng tôi có mặt tại sân tiểu đoàn 9, đơn vị sinh hoạt kể chuyện chiến đấu. Ông phân tích nguyên nhân vì sao phải cạo trọc đầu, tại sao lại có tên đại đội đầu trọc và đại đội trưởng đầu trọc. Chúng tôi, những học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy binh chủng hợp thành chưa hề biết về chiến tranh, mới vỡ ra nhiều điều.
Ông đủng đỉnh nói:
- Điện Biên Phủ rất hiếm nước, mưa mới có nước. Do thiếu nước, sinh hoạt của bộ đội càng trở nên vô cùng khó khăn. Cực khổ, thiếu thốn thì không sao tả xiết. Suốt ngày dầm mưa để đào hào, đánh lấn.
Nhìn anh em bùn đất từ đầu đến chân, ông nảy ra sáng kiến cạo trọc đầu, vừa thể hiện quyết tâm chiến đấu vừa cho mát, cho tiện và lúc đánh giáp lá cà không bị bọn lính Pháp cao hơn túm tóc. Sáng kiến này được cả đại đội đồng tình. Thế là người nọ cắt tóc, cạo đầu cho người kia, chả mấy chốc cả đơn vị đầu trọc lóc.
Từ đó, đại đội 225 có cái tên "đại đội đầu trọc" và ông mang biệt danh "đại đội trưởng đầu trọc". Sau này Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp lại vẫn gọi ông với biệt danh thân mật đó.
Để cắt sân bay Mường Thanh phải diệt đồn 311A (điểm cao 311A) ở phía tây, điểm cao đầy hào sâu và dây thép gai chằng chịt bao quanh.
Trong cuộc họp bàn với cán bộ chỉ huy Đại đoàn 308, Trung đoàn 88 và Đại đội 225 mà ông được dự, để chuẩn bị cho cuộc tiến công điểm cao 311A, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp ý phải đào hầm ngầm dưới đất (còn gọi là hầm dũi) để tiến sát đồn địch.
Đại tướng nhấn mạnh nếu bộ đội chạy trên bãi trống thương vong sẽ rất lớn. Ông đã thấy đó là một sáng kiến lớn và tự nguyện chấp hành.
Bộ đội khẩn trương đào hào tới sát điểm cao 311A, ông cho đưa bộc phá lên đánh. Bộc phá vừa nổ, toàn thể đơn vị xung phong từ hầm, không chạy trên mặt đất.
Sau chiến thắng Him Lam, đêm 14 rạng sáng 15-3-1954, Trung đoàn 88 vinh dự nhận nhiệm vụ đánh trận đầu tiên của Đại đoàn 308 nhằm tiêu diệt cụm cứ điểm Độc Lập, với sự phối hợp của Trung đoàn 165 - Đại đoàn 312, dưới sự chi viện hỏa lực của hai đại đội pháo 105 ly thuộc Đại đoàn 351.
Đồi Độc Lập dài 700m, rộng 150m ở phía bắc, cách trung tâm Mường Thanh 4km, có hệ thống lô cốt và chiến hào vững chắc, hàng rào dây thép gai bao bọc trên 100m do tiểu đoàn 5, Trung đoàn 7 bộ binh địch ở Mường Thanh - Hồng Cúm chi viện mạnh. Có thể xem đây là cánh cửa thép phía bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
15h ngày 14-3-1954, ta đã hoàn tất việc đào hào để tiến quân, điểm gần nhất đã tới cách địch 150m. Tiểu đoàn 29 được giao nhiệm vụ làm mũi đột kích chủ yếu của Trung đoàn 88, có tiểu đoàn 322 làm đội dự bị.
Trung tướng Lê Nam Phong hồi tưởng:
- Đại đội Tô Văn là mũi nhọn của Tiểu đoàn 29. Đại đội 225 là đội xung kích do tôi chỉ huy. 17h, lựu pháo 105 ly của ta bắn vào khu đồi Độc Lập, lập tức địch ở Mường Thanh bắn trả lại.
Việc này tiếp diễn đến nửa đêm và lựu pháo của ta phải bắn kéo dài để chờ sơn pháo 75 ly và cối 120 ly đến. Do vậy, bộ đội ta phải chịu đựng nhiều đợt pháo 105 ly và 155 ly của địch dội xuống trận địa trong nhiều giờ liền.
Trời mưa như trút nước, hào giao thông ngập nước, bùn quánh lại, di chuyển rất khó khăn. Sau khi sơn pháo 75 ly và cối 120 ly chiếm lĩnh xong trận địa, 3h15 sáng 15-3, lệnh của chỉ huy trưởng truyền xuống: Chuẩn bị! Lựu pháo sẽ bắn dồn dập thêm một loạt nữa. Hỏa lực các đơn vị phải phối hợp. Sau 15 phút, xung kích tranh thủ "mở cửa". Đúng 3h30 phút, nổ súng!
Đúng 3h30, từ phía đông pháo 105 ly gầm lên, trút bão lửa xuống đồi Độc Lập. Ở tuyến hỏa lực bắn trực tiếp, cách đồn địch 100m, 10 khẩu đội bazoka đồng loạt phóng đạn lõm vào các hỏa điểm, 9 khẩu ĐKZ cùng 6 khẩu đại liên Mắcxim cùng bắn thẳng vào cứ điểm…
Đến nay đã 60 năm trôi qua, Đại đội 225 - tiểu đoàn 322 của Trung đoàn 88 anh hùng chỉ còn lại 4 người: Lê Nam Phong, đại đội trưởng; Phạm Đức, liên lạc; Trần Tường, chiến sĩ; Trần Nam, chiến sĩ.
Ông nhớ lại:
- Đúng lúc tôi đang kiểm tra lại vị trí xuất phát xung phong và động viên chiến sĩ chuẩn bị tinh thần cho một trận đánh mang tính quyết định mở màn chiến dịch thì trung đoàn trưởng điện xuống hỏi: "Đại đội đã sẵn sàng chưa?". Tôi trả lời: "Tất cả đã sẵn sàng xuất kích".
Tôi vừa nói xong thì pháo binh ta dội lửa xuống đồn giặc. Trời đất rung chuyển. Cứ điểm địch trên đồi Độc Lập mù mịt khói lửa. Tôi dẫn đầu đại đội xông lên, sau khi Đại đội 211 nổ bộc phá dọn đường qua bãi mìn và kẽm gai, đánh cùng với đơn vị đồng chí Nguyễn Ngọc Doãn, Trung đoàn 165 - Đại đoàn 312.
Quân địch dựa vào lô cốt chống trả quyết liệt. Đại đội chủ công của Trung đoàn 165 đang quần nhau quyết liệt với chúng. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Trung đoàn 165 đánh tiêu diệt sở chỉ huy và tiểu đoàn Âu - Phi.
Đến 6h30 ngày 15-3-1954, Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312 đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Độc Lập. Đại đội trưởng đại đội 213 Nguyễn Phạm dùng súng ngắn tiêu diệt địch, anh bị thương nặng và đã trút hơi thở cuối cùng ngay tại chiến trường khói lửa.
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Ảnh tư liệu
Nhà sư phạm giàu thực tiễn chiến đấu
Là người trải qua chiến đấu từ một đại đội trưởng phát triển lên cấp tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng, tư lệnh quân đoàn từ chiến trường chống Pháp đến chống Mỹ…, trung tướng Lê Nam Phong luôn nhấn mạnh việc sử dụng hỏa lực trong mở cửa đánh chiếm đầu cầu. Có một cán bộ nói với ông:
- Bố đi đâu cũng nói "cửa mở".
Ông vui vẻ trả lời:
- Không "mở được cửa" thì sao mà đưa đột kích 1 và đột kích 2 vào phát triển chiến đấu?
Một lần học dã ngoại chiến thuật đồng bằng sông nước, tôi bị ông gọi ra trước hàng quân chất vấn:
- Nhà hùng biện (tên thân mật ông hay gọi tôi lúc đang là học viên tại trường), để giải quyết cửa mở thì cần phải chú ý điều gì?
Tôi mạnh dạn nói:
- Thưa hiệu trưởng, cần hỏa lực.
Hiệu trưởng từ từ phân tích:
- Nói đúng nhưng chưa đủ. Cần chú ý mở sạch, đúng hướng.
Thực tế trong tiến công, nếu mở cửa không sạch, không đúng hướng thì bộ đội không thể phát triển và cơ động nhanh vào trung tâm trận địa của địch được.
Những yêu cầu này chỉ những người như ông mới có thể lý giải đúng vì ông đã từng đi lên từ một bộc phá viên.
Trung tướng Lê Nam Phong - Ảnh tư liệu
Trung tướng Lê Nam Phong, nguyên đại đội trưởng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nguyên sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, Quân đoàn 4, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 1, nguyên phó Tham mưu trưởng Mặt trận 719 - Bộ Quốc phòng, nguyên hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2 đã trút hơi thở cuối cùng trưa 26-3-2022 tại TP.HCM, hưởng thọ 95 tuổi.
Vị tướng giàu tình thương
Trung tướng Lê Nam Phong rất thương cấp dưới, đặc biệt lúc ông làm hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 2.
Thời kỳ ấy đời sống cán bộ còn nhiều khó khăn, nhiều anh em cán bộ giảng viên có vợ con từ miền Bắc, miền Trung vào Nam theo chồng không có việc làm, ông chủ trương cấp đất, nhận các chị vào làm việc tại đơn vị.
Khu tập thể Trường Sĩ quan Lục quân 2 ngày nay phát triển khá đẹp là nhờ một phần đóng góp của tung tướng.
Những lần gặp ông, bao giờ ông cũng hỏi tôi vợ con thế nào, tình hình công tác ra sao. Ông rất quan tâm đến mọi người và rất nhớ từng người lính là cấp dưới của mình. Cá nhân tôi chỉ là học viên mà ông vẫn nhớ tên. Con người ông là vậy.
Lúc làm hiệu trưởng, ông luôn trăn trở việc xây dựng quân đội trong tương lai cần phải tiến lên chính quy hiện đại. Ông chủ động cử đội ngũ cán bộ, giảng viên của trường đi đào tạo tại các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội. Vì thế đội ngũ cán bộ trường sau này đều có trình độ sau đại học và ngày càng phát triển.
Trong cuộc đời, ông có những quyết định quan trọng để giành thắng lợi, cũng có những quyết định rất hay theo lương tâm, tình cảm của một người lính trận.
Tôi nhớ năm 1997, khi vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm trường, ông quyết định đón Đại tướng theo nghi thức trang trọng cấp nhà nước, bởi với ông Đại tướng còn là người anh cả ông vô cùng kính trọng.
Trung tướng Lê Nam Phong kể những năm 1982-1983, khi ông là tư lệnh Quân đoàn 1 (đóng ở Tam Điệp - Ninh Bình). Cuối tháng 10-1983, ông mời Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm nhân dịp quân đoàn tròn 10 tuổi. Đại tướng đến sau một ngày, khi quân đoàn đã làm xong lễ kỷ niệm.
Mở đầu buổi gặp gỡ, ông nhấn mạnh: "Chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vào những năm giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ, là người nhiều lần đề nghị thành lập quân đoàn, và Quân đoàn 1 đã được thành lập theo đề nghị của Tổng tư lệnh. Nghe Trung tướng Lê Nam Phong nói điều đó, toàn thể tướng sĩ càng thêm kính trọng...
Chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng khốc liệt - Ảnh tư liệu
TTO - Cuộc đời hơn 80 năm hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với những mốc son lịch sử trọng đại, được nhân dân hết lòng kính trọng, được cán bộ chiến sĩ mến phục, được bạn bè quốc tế nể phục.
Xem thêm: mth.30464128092302202-nart-neihc-ahp-gnox-gnout-iv-gnohp-man-el-gnout-gnurt/nv.ertiout