Bộ Chính trị vừa ban hành kết luận về tiếp tục thực hiện nghị quyết số 18 ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả".
Chính sách tiền lương, trọng dụng người tài chậm cụ thể hóa
Theo đó, Bộ Chính trị ghi nhận kết quả thực hiện nghị quyết đã góp phần khắc phục một số hạn chế về hiệu lực, hiệu quả hoạt động tổ chức bộ máy, hoàn thiện mô hình tổng thể hệ thống chính trị, tạo nền tảng tiếp tục thực hiện hiệu quả nghị quyết này đến năm 2030.
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng chưa gắn sắp xếp tổ chức bộ máy với tinh giản biên chế theo vị trí việc làm và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thu hút nhân tài.
Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, tổ chức vẫn còn trùng lặp, chồng chéo, chưa phù hợp, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Một số chủ trương mới như chính sách tiền lương, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài vào làm việc trong hệ thống chính trị chậm cụ thể hóa; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có năng lực chuyển sang khu vực tư.
Ngoài ra vẫn còn tình trạng chậm khắc phục sai phạm trong tuyển dụng, bổ nhiệm; chưa làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân để xảy ra sai phạm...
Từ đó Bộ Chính trị yêu cầu tiếp tục thực hiện có hiệu quả, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu nghị quyết 18 đặt ra.
Tăng cường nghiên cứu lý luận về mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phù hợp với cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và tình hình thực tế.
Kịp thời sơ kết, tổng kết nghị quyết, chủ trương của Đảng về tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị...
Bộ Chính trị cũng yêu cầu tiếp tục kiện toàn tổ chức bên trong của các cơ quan, đơn vị, tổ chức theo hướng tinh gọn; khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ...
Kiên quyết chuyển cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm những nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện.
Sửa đổi, bổ sung quy định về số lượng cấp phó trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị; quy định về sắp xếp các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, cấp huyện phù hợp thực tiễn.
Cạnh đó, tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định và kết luận của Bộ Chính trị về quản lý biên chế.
Hoàn thiện danh mục vị trí việc làm cùng với khung năng lực, bản mô tả vị trí việc làm của hệ thống chính trị làm cơ sở xác định biên chế của từng cơ quan, đơn vị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn, gắn với đánh giá thực chất, xếp loại chính xác công chức, viên chức.
Khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung
Bộ Chính trị yêu cầu thể chế chủ trương của Đảng về tổ chức bộ máy, biên chế, quản lý công chức, viên chức, khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung... bảo đảm kịp thời, đồng bộ, thống nhất, liên thông.
Tiếp tục phân cấp, phân quyền hợp lý; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; hoàn thành rà soát, sắp xếp chức danh, chức vụ theo phân cấp quản lý.
Xây dựng, ban hành bảng lương chức vụ bảo đảm đồng bộ, thống nhất với danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở, sửa đổi mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh.
Điều chỉnh hợp lý chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố; quy định số lượng cán bộ, công chức cấp xã phù hợp với quy mô, dân số, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Có cơ chế, chính sách phù hợp với người chịu tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; nghiên cứu, ban hành chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài vào làm việc trong hệ thống chính trị.
Ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tiễn xem xét, quyết định việc thực hiện trưởng ban tuyên giáo cấp ủy đồng thời là giám đốc trung tâm chính trị cấp huyện; mô hình văn phòng cấp ủy phục vụ chung cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy cấp tỉnh.
Bộ Chính trị vừa có kết luận về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.