Ngân hàng Nhà nước đã có Tờ trình Chính phủ về việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam.
Trong Dự thảo Nghị định sửa đổi, Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc (không bao gồm các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) được nâng room vốn ngoại lên 49%. Quy định này không áp dụng với ngân hàng có vốn Nhà nước sở hữu trên 50%.
Hiện có 4 ngân hàng đã có kế hoạch nhận chuyển giao bắt buộc 4 tổ chức tín dụng yếu kém, gồm MB, HDBank, VPBank và Vietcombank. Trong đó, Vietcombank không đủ điều kiện được nới room ngoại lên 49% do Nhà nước nắm giữ hơn 50% vốn. Như vậy, cơ hội được nới room thuộc về 3 nhà băng là MB, HDBank và VPBank.
Ngân hàng Nhà nước cho biết hiện đã có 2 ngân hàng nhận chuyển giao tại phương án có đề xuất được nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng lên 49%. Đến tháng 6/2022, 2 nhà băng này chiếm gần 6,6% tổng tài sản, 5,26% thị phần huy động và gần 5,5% thị phần cho vay của toàn hệ thống ngân hàng cổ phần.
Đối với ngân hàng thương mại cổ phần khác, Ngân hàng Nhà nước chưa điều chỉnh tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài vượt giới hạn 30%.
Nguyên nhân là thời gian qua, nhiều ngân hàng 100% vốn nước ngoài đang tiếp tục mở rộng mạng lưới và tăng vốn điều lệ. Đơn cử, Standard Chartered năm 2021 tăng vốn điều lệ từ 4.200 tỷ đồng lên 6.900 tỷ đồng, UOB Việt Nam tăng vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng lên 5.000 tỷ đồng. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng tăng quy mô vốn được cấp. Ví dụ, NongHyup chi nhánh Hà Nội tăng vốn từ 35 triệu USD lên 80 triệu USD, Bank of China chi nhánh TPHCM tăng vốn từ 80 triệu USD lên 100 triệu USD…
Trong khi đó, hiện đã có 27/31 ngân hàng thương mại cổ phần đã được niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nhà điều hành cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài (ngoại trừ nhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư lớn) dễ rút vốn ra khỏi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam khi có biến động lớn về kinh tế trong nước hoặc trên thế giới, sẽ gây khó khăn trong công tác quản lý kinh tế và điều hành chính sách tiền tệ.
5 năm trở lại đây, có hiện tượng một số ngân hàng nước ngoài (chủ yếu từ châu Âu) dần rút vốn đầu tư khỏi ngân hàng trong nước, chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư trong nước hoặc các ngân hàng châu Á. Việc nhà đầu tư nước ngoài thoái vốn hoặc chuyển các khoản đầu tư của họ cho cổ đông khác đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể mất đi phần lợi ích từ nhóm khách hàng do nhà đầu tư nước ngoài mang lại.
Ngoài ra, cơ chế CPTPP yêu cầu các nước thành viên không đảo ngược tiến trình tự do hóa. Điều đó có nghĩa khi Việt Nam điều chỉnh tăng tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài vượt giới hạn 30% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần sẽ không thể điều chỉnh giảm trở lại nếu muốn.
Hiện nhiều ngân hàng vẫn còn nguyên room ngoại hoặc tỷ lệ sở hữu nước ngoài ở mức thấp. Có thể kể đến một số cái tên như VietABank, VietBank, SHB, LienVietPostBank, SeABank, Bac A Bank, VietCapital Bank, KienlongBank, PG Bank…
Xem thêm: mth.97302810092303202-94-nel-iaogn-moor-ion-coud-eht-oc-oan-gnah-nagn/hnaod-hnik/nv.moc.irtnad