Năm 2030, kinh tế tư nhân phải đóng góp 55 - 65% GDP
Tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân lần thứ hai năm 2023 do Hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam tổ chức ngày 2/4/2023 với chủ đề "Để kinh tế tư nhân thực sự là động lực quan trọng của nền kinh tế trong tình hình mới", TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia dẫn thông tin cho biết, ngày 31/3/2023, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 45 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân.
Theo đó, Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2025 có 1,5 triệu doanh nghiệp tư nhân, kinh tế tư nhân đóng góp 55% vào tăng trưởng GDP; đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp 55 - 65% GDP.
"Như vậy, đến năm 2030, khu vực kinh tế tư nhân phải chiếm 1/3 quy mô nền kinh tế, muốn vậy 60-70% doanh nghiệp tư nhân phải ứng dụng khoa học công nghệ ở mức độ tiên tiến, mỗi năm phải tăng năng suất lao động 5%", ông Lực nhấn mạnh.
Trong khi đó, vị chuyên gia bày tỏ sự băn khoăn vì kết quả thống kê quý I/2023 cho thấy tốc tăng trưởng GDP quý đầu năm của Việt Nam chỉ tăng 3,32%, gần thấp nhất trong 11 năm qua, chỉ cao hơn quý I/2020 là thời điểm chịu cú sốc đại dịch Covid-19; trong đó ngành công nghiệp, xây dựng và một số ngành khác tăng trưởng thấp, thậm chí tăng trưởng âm.
Thực tế hiện nay, theo thống kê của TS. Cấn Văn Lực dựa trên dữ liệu của thị trường chứng khoán năm 2022, khu vực kinh tế tư nhân mới chiếm 46,42% GDP năm 2021 (ước tính). Hiện cả nước mới có hơn 786.000 doanh nghiệp tư nhân, không đạt mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp tư nhân vào năm 2020 và còn cách khá xa mục tiêu 1,5 triệu vào năm 2025.
6 tồn tại, 10 giải pháp
Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân của Việt Nam là khá tham vọng, tuy nhiên theo TS. Cấn Văn Lực, khối doanh nghiệp tư nhân hiện nay đang tồn tại một số hạn chế:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây, chưa đạt mục tiêu đến năm 2020 đạt ít nhất một triệu doanh nghiệp, chiếm 50% GDP theo Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017.
Thứ hai, kinh tế tư nhân chủ yếu có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, đa số vẫn là kinh tế hộ kinh doanh (chiếm 94%) với trình độ công nghệ, quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh còn thấp; cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác.
Toàn cảnh Diễn đàn Kinh tế tư nhân lần thứ hai năm 2023 sáng 2/4/2023. |
"Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020, bình quân một doanh nghiệp Nhà nước có 5.300 tỷ đồng tiền vốn; doanh nghiệp FDI là 420 tỷ đồng trong khi doanh nghiệp tư nhân chỉ có 43,8 tỷ đồng (DN nhỏ và vừa chỉ có quy mô vốn từ 10-12 tỷ đồng). Quy mô doanh nghiệp tư nhân trung bình chỉ 15 lao động", ông Lực nhấn mạnh.
Thứ ba, năng lực hội nhập và cạnh tranh kinh tế quốc tế còn hạn chế, mức độ tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu ở mức thấp; chủ yếu vẫn là gia công, nhập khẩu để sản xuất, gia công rồi xuất khẩu.
Ông Lực gọi quy trình này của Việt Nam là "liên kết ngược" và nguyên nhân là do năng lực quản trị DN đa số còn ở mức thấp, chưa có nhiều đột phá, thay đổi căn cơ, bài bản.
"Hiện chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia một số chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành công trong việc liên kết với đối tác nước ngoài.
TS. Cấn Văn Lực
Thứ tư, tình trạng vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong kinh tế tư nhân chưa giảm. Cụ thể là gây ô nhiễm môi trường, chưa đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, gian lận thương mại, trốn thuế, buôn lậu, báo cáo tài chính thiếu minh bạch, nợ bảo hiểm...
Vị chuyên gia cho rằng, nguyên nhân chính là văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh chưa được quan tâm trau dồi, tính thượng tôn pháp luật còn chưa cao.
Thứ năm, khu vực kinh tế tư nhân, tư nhân luôn thiếu vốn. Một phần là do doanh nghiệp Việt Nam còn chưa đa dạng hóa nguồn vốn (phụ thuộc nhiều vào vốn ngân hàng); phần khác là chưa quan tâm thích đáng đến quản lý tài chính, huy động vốn từ thị trường vốn chưa bài bản...
Thứ sáu, khu vực kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng chưa thực sự chú trọng đầu tư công nghệ, Nghiên cứu và phát triển (R&D) hay ứng dụng CNTT. Cụ thể, tỉ lệ sử dụng công nghệ cao rất thấp so với các nước trong khu vực, chỉ đạt 2%; nguồn vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, khoảng 0,2-0,3% tổng doanh thu (theo khảo sát của VCCI 2021).
Nêu kiến nghị phát triển kinh tế tư nhân, TS Lực đề ra 10 giải pháp trong đó 05 giải pháp dành cho Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội; 5 giải pháp dành cho doanh nhân và cộng đồng doanh nghiệp.
Theo đó, cơ quan quản lý cần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững đi đôi với tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải thiện thực chất, mạnh mẽ môi trường đầu tư – kinh doanh. Đặc biệt, cần có cơ chế, chính sách và cách làm phù hợp để “khuyến khích” hộ kinh doanh nâng cấp thành doanh nghiệp siêu nhỏ.
Ngoài ra cần xây dựng, hoàn thiện bộ tiêu chí về đạo đức kinh doanh, về doanh nhân tiêu biểu, phát triển bền vững nhằm tìm kiếm và bình chọn được những cá nhân, doanh nghiệp điển hình để lan tỏa và nhân rộng trong đội ngũ doanh nhân và cộng đồng doanh nghiệp. Hoạt động của các hiệp hội cũng cần được nâng tầm, thiết thực, hiệu quả hơn nữa.
Về phía doanh nghiệp tư nhân, ông Lực cho rằng, đội ngũ này cần phải nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước; từ đó xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho cả trước mắt và lâu dài.
Cần quan tâm xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp như là tài sản đặc biệt, lợi thế cạnh tranh không chỉ của doanh nghiệp, mà còn là “tài sản quốc gia”.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh chuyển đổi số, đầu tư và ứng dụng CNTT tại doanh nghiệp; chú trọng nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, quản trị kinh doanh và quản trị rủi ro, trong bối cảnh môi trường kinh doanh nhiều biến động. Chủ động hợp tác, liên kết, tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước và khu vực.
Cuối cùng, doanh nghiệp cần tích cực tham gia cùng Đảng và Nhà nước, bộ, ngành, địa phương trong kiến tạo và phát triển môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi, công bằng thông qua đóng góp các ý kiến, phản biện chính sách để góp phần hoàn thiện và thực thi thể chế.